Đặng Xuân Xuyến
Đặng Xuân Xuyến |
“Chập chờn như thể lời yêu
Lúc tha thiết lúc như điều không đâu
Em về mang áo ra khâu
Cây kim sợi chỉ để xâu chập chờn.
Chỉ bốn câu thơ mà ngổn ngang rối bời tâm trạng. Phải chăng cõi người đã thêm một định nghĩa hay khác đi thêm một phạm trù nữa của tình yêu. Tôi tin tất cả những người mới bắt đầu nếm trải cái vị ngọt, đắng của tình yêu đều có tâm trạng chập chờn như Đồng Thị Chúc. Trong cái lâng lâng dịu ngọt ban đầu ấy đã xuất hiện một nỗi lo âu. Bởi khi người ta quá hạnh phúc người ta lại lo âu đó là điều không có thực điều dễ mất đi nên cứ chập chờn khi có khi không.
Rồi để tự trấn tĩnh mình nên “Em về mang áo
ra khâu”. Tức là muốn được va chạm được nắm cầm những điều hiện hữu đó là tấm
áo, sợi chỉ cây kim để như muốn chứng minh hay nói đúng hơn là để nhận biết
mình đang tồn tại. Thế nhưng rồi em không thể khâu áo mà lại khâu cái chập chờn
của lời yêu. Khâu nó vào đâu và sao lại phải khâu? Phải chăng em muốn giữ chặt
nó mãi trong em không bao giờ nó còn chập chờn được nữa để rồi nó mãi là của em
vì em đã xâu chặt nó vào tim em... vào đời em...
Thơ có cần gì nhiều đâu. Tôi nghĩ chỉ cần
thế thôi cũng đủ để lưu danh trong cõi người ...”
Chả cần bình! Chỉ khoảng hơn mười dòng chia
sẻ như thế cũng đã đủ để gợi mở tâm trạng rối bời với ngổn ngang những thấp
thỏm nỗi niềm của kẻ đang yêu, khát yêu... cũng đủ để bạn đọc tự cảm nhận được
sự dịu dàng, nữ tính và những đăm đắm yêu thương, những nhớ nhung bời bời trong
thơ hay của Đồng Thị Chúc. Vâng, cái khéo của cây viết dạn dày Nguyễn Xuân
Dương là thế. Người đọc cảm thấy thoải mái khi đi theo sự gợi mở của người viết
vì người viết rất khéo cất đi cái tôi của mình. Hình như, đấy là cách viết được
coi là chủ lực của nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương?!
Hay những dòng status rất ngắn về “Vô
Đề”, một bài thơ cũng rất ngắn (19 chữ) của Trịnh Loan:
“Em chẳng cách nào buộc chặt đôi cánh gió.
Chỉ có thể dịu dàng...
Quàng khăn ấm cho anh!
Chỉ cần thế thôi đã là tất cả tình yêu em
dành cho anh suốt cả cuộc đời. Đã mấy ai khi gió rét mưa dầm không thể buộc gió
che mưa lại biết dịu dàng quàng khăn ấm cho anh trước mỗi sáng đi làm. Hình
tượng người vợ tuyệt vời chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn ngủi. Trên đời này biết bao
người khát thèm mơ ước hành động thật giản đơn như thế từ tấm lòng từ tay người
vợ. Bởi không phải ai cũng nghĩ và làm được điều đơn giản đó ...
Thơ Trịnh Loan bao giờ cũng đầy ắp yêu
thương”
Ngắn, rất ngắn, ngắn đến kiệm lời nhưng chỉ
vài dòng cảm nhận ngắn ngủi thế thôi đã đủ để đẩy bài thơ đến trái tim bạn đọc
và nhanh lan tỏa. Thơ đã nén chặt, bình lại kiệm lời, bạn đọc thêm nhiều “đất”
để thỏa sức phiêu bồng cảm xúc cùng thơ. Cách bình thơ này, nhà Phê bình Văn
học Nguyễn Xuân Dương đã gặp nhà nghiên cứu Văn hóa Bùi Đồng ở điểm: xúc tích,
ngắn gọn, không “áp đặt”, không “suy diễn”, chủ ý chừa lại “đất” để bạn đọc cảm
nhận theo những cách riêng của bạn đọc. Cái tôi của tác giả bình thơ được chủ ý
đặt khiêm nhường phía sau tác giả thơ để đẩy bài thơ thăng hoa cảm xúc cùng bạn
đọc!
Đôi khi, gặp những bài thơ mà do rào cản
của ngôn từ, khiến người đọc khó cảm nhận hết được cái hay, cái đẹp trong thơ
thì ông vận dụng sự hiểu và biết của mình để "dẫn dụ” bạn đọc khám phá cái
hay, cái đẹp ẩn sâu trong câu chữ của bài thơ. Ví như khi bình bài thơ “Đêm
Trắng” (1) của Trần Đăng Khoa: “Đêm trắng
lạnh, có một người không ngủ / Nhớ quê hương mà chẳng thể trở về / Ngoài cửa sổ
cây bạch dương biết thế / Trổ lên trời lặng lẽ đóa trăng quê...”, ông
đã dùng câu chuyện về sự tích 2 từ Thôi Xao để bật lên “tài năng và sự kì
khu nghiêm cẩn về sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ Trần Đăng Khoa”. Cách bình
thơ này đòi hỏi người bình phải có vốn sống, vốn kiến thức sâu rộng và làm chủ
được cảm xúc để bài bình không sa vào “tán dương kiến thức”, để dẫn dắt được
cảm xúc của người đọc thăng hoa cùng thơ.
Yêu cầu của việc bình thơ là phải đáp ứng
được yếu tố phát hiện. Bài bình thơ chỉ ấn tượng với bạn đọc khi người bình
phát hiện ra những câu thơ hay, những tứ thơ độc đáo hoặc nghệ thuật sử dụng
câu chữ “đắc địa”, tài hoa... của nhà thơ. Khá nhiều bài bình thơ của tác giả
Nguyễn Xuân Dương đã đáp ứng được yêu cầu đó. Tuy nhiên, đọc các bài ông bình
thơ, rất ít gặp ông bình sâu về nghệ thuật tu từ hay cách dựng tứ ở bài thơ mà
thường là chia sẻ những cảm xúc, những phát hiện của ông về những câu thơ hay,
những tứ thơ độc đáo, những cách dùng chữ “đắc địa”... với bạn đọc, ví như đoạn
trích dẫn dưới đây trong bài “Trao đổi với nhà thơ Nguyễn Vượng về ngôn
ngữ trong thi ca” (2):
"Rõ ràng cụm từ: BÊN ĐÂY BỜ VĨNH
TẬN là một cụm từ sáng tạo của nhà thơ Dung Thị Vân. Hiểu thế nào về cụm từ đó
chỉ có nhà thơ mới lí giải một cách cặn kẽ. Nhưng đôi khi sự lí giải ấy chắc gì
đã được người đọc chấp nhận. Với tôi, tôi nghĩ đây thuộc về một giới hạn vô
cùng của không gian và không chỉ là không gian mà còn là giới hạn của của cảm
xúc. Qua đó hình như nhà thơ đã muốn bày tỏ về sự tận cùng vĩnh cửu của những
tàn phai. Ta cứ phải mặc nhiên công nhận nó và ta cảm nhận sự mông mênh của thi
ca. Ta thấy những câu thơ như thế chiếm đoạt được cảm xúc của con tim mà không
hiểu được vì sao lại như thế. Nó rất hay, nhưng hay ở chỗ nào thì ta cũng không
thể lý giải."
để bạn đọc thăng hoa cảm xúc cùng thơ theo
cách cảm nhận riêng của bạn đọc. Có lẽ vì thế mà những bài bình thơ của ông dễ
đồng cảm với người yêu thơ.
Khi đọc Nguyễn Xuân Dương giới thiệu “Chị
Bỏ Mùa Hoa Gạo” (3) của Nguyễn Đăng Thanh, tôi xuýt xoa, nghẹn
ứ ngay ở những câu thơ đầu:
“Em đứng trên bờ, tiễn chị về phía bên
sông / Quay mặt bỏ đi, rẽ lối nào cũng gió / chị ơi, tháng ba… / đường làng
mình nở đầy hoa Gạo đỏ / có lẽ, thấy em buồn / hoa khóc… rụng ở triền sông.”
Hay quá! Nhiều cảm xúc quá! Nhưng những câu
thơ tiếp theo bị cái bóng sừng sững của “Lá Diêu Bông” chặn mất cảm xúc
khiến tôi nản định thôi đọc, rồi tò mò đọc lời bình, tôi bị cuốn theo cảm xúc
của Nguyễn Xuân Dương, ông đã xóa nhòa bức tường vô hình của “Lá Diêu
Bông” để tôi cứ cùng Nguyễn Đăng Thanh mà day dứt nhớ thương, mà
trách cứ tủi buồn, mà rưng rưng lệ với “Chị Bỏ Mùa Hoa Gạo”. Tôi
comment cám ơn người bình: “Thơ hay nhưng người đọc không khoái lắm vì bị
"Lá Diêu Bông" chặn mất nguồn cảm hứng. Khổ thế đấy. "Lá Diêu
Bông" sừng sững như thế cơ mà! May thay, đọc lời bình của tác giả Nguyễn Xuân Dương, mạch cảm hứng với “Chị
Bỏ Mùa Hoa Gạo” lại dâng trào. Cám ơn nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân
Dương đã giới thiệu một bài thơ hay!”
Mặc dù luôn nâng niu cảm xúc khi bình thơ
và chỉ viết lời bình khi cảm xúc dâng trào trước bài thơ hay, trước tứ thơ độc
đáo, đẹp, lạ nhưng có lần nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương cũng để chữ
tình vướng víu ngòi bút, ví như bài “Vô Đề” của Đỗ Cao Nhân:
“Trưa Sa Pa hửng nắng
Tối mưa lạnh Lai Châu
Hỏi người vùng sơn cước
Sáng mai đi về đâu.”
Khi đọc những lời cảm thơ vì tình bạn của
ông: “Bài thơ thật giản dị hai câu đầu nói về chuyện mưa nắng của vũ trụ và
chen vào đó là hai địa danh. Sự đột biến và cao trào thơ lại chính là hai câu
dưới. Nhân vật trữ tình thứ hai chỉ là Người sơn cước và cái hay của thơ ở đây
là chính chữ NGƯỜI không có giới tính.”, dù ông khéo léo rào dậu che chắn
sự “nâng đỡ” “Vô Đề” ở mấy dòng kết bài: “Tôi rất trân trọng
bài thơ này vì nó chẳng nói gì mà thực ra lại đã nói rất nhiều nếu ta biết chìm
sâu vào phía sau con chữ và có lẽ cần thêm một chút lương duyên cùng nghề
nghiệp ...”, tôi tin vẫn không ít bạn đọc sẽ hiểu sai ông viết vì
“nhuận bút” do bạn đọc không biết chữ tình ông trân quý dành cho bạn bè, nhất
là bạn cùng nghề Địa chất - nghề đã để lại không ít ký ức trong ông như một
“nghiệp quả” của số phận.
Tôi đã comment dưới bài viết của ông thế
này: - “Thực sự là người bình vì chữ TÌNH BẠN mà đẩy bài này lên quá xa, quá
nhiều. Cháu rất xin lỗi 2 chú khi nói thật lòng! Cũng vì rất quý yêu những
trang viết của chú Nguyễn Xuân Dương nên cháu mới thật lòng đấy ạ.”. Ông đã
tế nhị gửi tin nhắn tới tôi: -“Cái khó của người cầm bút là chữ TÌNH
anh ạ, nhất là khi chữ TÌNH đã trải qua những sóng gió, thăng trầm của cuộc
đời. Chú nghĩ, nếu vì chữ tình mà người viết thiệt thòi cái TÔI một chút để đem
lại niềm vui nho nhỏ rất đáng cho bạn bè thì cũng nên, anh Đặng Xuân Xuyến
nhỉ?!”.
Nhưng không phải trường hợp nào ông cũng
xuề xòa vì 2 chữ tình bạn. Chẳng hạn, có lần ông đã thật chu đáo viết lời bình
một bài thơ của nhà thơ ông rất yêu quý nhưng khi trao đổi về câu thơ (tên bài
thơ) nhà thơ trích dẫn sai, ông quyết định xóa bỏ bài viết vì “sai sót thuộc
về trích dẫn mà với câu thơ (thực ra là tên bài thơ) trích dẫn thì đã là người
yêu thơ ai cũng thuộc, “người ta” sẽ đánh giá người bình luận kém hiểu biết
hoặc người bình luận không nghiêm túc”. Hay lần khác, một nhà thơ mến mộ
tài bình thơ của ông, gửi tặng ông tập thơ qua bưu điện với lời đề nghị “xin
bác cho cháu vài lời cảm nhận”, ông thật lòng hồi đáp: -“Tôi thích cách
sử dụng câu chữ sáng tạo của anh nhưng tôi không bình luận được dù đã đọc kỹ
tập thơ anh gửi tặng. Câu chữ của anh đẹp lắm nhưng những chữ đó như cái xác
đẹp mã mà thiếu hồn nên đọc xong cứ trôi tuột, chả đọng lại gì thì bình luận
làm sao!”
Vì yêu thơ, vì nâng niu những cảm xúc do
thơ đem lại nên ông hào phóng khen tặng những câu thơ hay, những thi tứ đẹp, ví
như ông khen câu “Ríu chiều hiu hắt mưa” trong bài “Đọc “Rét Cằn”
của Đặng Xuân Xuyến” (4):
“Ôi! Yêu quá câu thơ: “RÍU CHIỀU HIU HẮT
MƯA”. Giá có bình luận một câu thơ này thì như cổ nhân đã dạy: "Thuyết thi
nhất thủ thị hàn tuyền", có nghĩa: Bàn về một bài thơ hay một suối sách
vẫn không đủ. Với câu thơ này thì cứ cho là một khe sách vẫn chưa đủ.
Có những lúc xuất thần chỉ cần một câu thơ
như thế bài thơ sẽ bừng sáng lên. Và như có lần Hoài Thanh đã nói về một bài
thơ của ai đó rằng: ”Cả đời chỉ cần một bài thơ như thế đã lưu danh”. Tôi nghĩ
với câu thơ độc nhất vô nhị ấy, Đặng Xuân Xuyến cũng đã lưu danh trong đời. Bỏi
vì chẳng ai có được câu thơ tài hoa như thế nữa.”.
Hay như lời khen ông ưu ái dành cho “Em
có về lối cũ của Đinh Tiến Hải” (5):
“Sóng Tây Hồ / Xôn xao trên mắt nắng / Hồn lang thang / Mây dạt phía chân
trời / Em có về? / Ngang qua mùa xưa cũ / Ngắm me vàng / Rụng mải miết lối đi”.
Phải tinh tế và tài hoa lắm mới lưu giữ được những thi ảnh hư ảo này vào thi ca
để gửi gắm cho người đọc cùng mê say và càng thêm tiếc nuối vì mấy ai trong
chúng ta giờ có thể trở về ngồi bên bờ hồ Tây nơi Phủ Tây Hồ mà nhìn ngắm những
mắt nắng xôn xao trên sóng nước hồ Tây hay sóng nước xôn xao trên mắt nắng.?”
Những bài thơ trên tất nhiên không dở nhưng
đạt được như những lời ông đã phóng bút khen ngợi thì vẫn còn nhiều khoảng
cách. Có lẽ vì quý các tác giả thơ, vì yêu những cảm xúc bài thơ đem lại mà ông
hào phóng lời khen. Giá như ông tiết chế bớt một chút lời khen thì thật hay cho
người đọc, hay cho người bình và hay cho cả tác giả thơ! Phải chăng ông quan
niệm: Khen để khích lệ những tìm tòi, sáng tạo, những thành công của tác giả
thơ thì khen quá một chút cũng chẳng sao?!
Vâng! Ông bình thơ nhiều lắm. Tôi không
biết chính xác bao nhiêu bài nhưng với 2 tập Phê bình Văn học ông đã xuất bản
và rất nhiều bài giới thiệu thơ, bình thơ trên trang facebook cá nhân thì có lẽ
ông đã đồng hành cảm xúc, đã tiếp thêm “sinh khí” cho khoảng trên bốn trăm bài
thơ để những bài thơ đấy trở nên hay hơn, đẹp hơn và nhanh lan tỏa.
Hà Nội,19 tháng 05 năm 2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét