QUÊ NGHÈO
Quê tôi nghèo lắm
Tg Đặng Xuân Xuyến |
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
*.
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “QUÊ NGHÈO”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Là người Việt Nam không ai không biết tới cảnh nghèo, cái đói đã
đeo bám dân tộc ta từ những ngàn đời. Cảnh đói ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã
in đậm vào những trang văn, những bài thơ từ thuở ông cha ta biết dùng chữ viết
ghi lại cùng con cháu hôm nay. Nhiều câu thơ, trang văn đã làm rơi lệ người
đọc, thương cho số phận người xưa, lại thương cho phận số của chính mình. Cuộc
cách mạng năm 1945 giành lấy chính quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực
dân cai trị, người nghèo làm chủ lấy vận mệnh của mình với bao hy vọng đẹp
tươi, xây dựng một xã hội ấm no, công bằng, người không còn bóc lột người…
nhưng con đường ấy chưa biết bao giờ tới đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành
phố tập trung được xây dựng khang trang đẹp đẽ, vẫn còn những làng quê chưa
thoát khỏi cảnh nghèo:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặt chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ…
Bộ mặt đời sống mỗi vùng quê mỗi nơi tuy có khác nhau nhưng nhìn
chung vẫn chưa nhấc nổi bàn chân thoát khỏi cái vòng nghèo khó. Bây giờ không
còn đói dài đói rạc, không còn quần mảnh áo manh, sự nghèo khó lại mang bộ mặt
khác.
Nhìn từ bên ngoài:
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài…
Chiếc cổng làng thành:
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ!
Còn đời sống thật bên trong, văn hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa
học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa nâng con người thêm lên là bao. Thật buồn cười,
hàng ngày qua đài báo ta cứ nghe ra rả những lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của
nhân dân!” nhưng nhìn vào anh chị cán bộ nhỏ bé nhất của làng ai cũng quần là
áo lượt, còn nhân dân thì áo đẫm mồ hôi, quần quật nắng sương lại được tiếng là
ông chủ của đất nước. Trong khi mảnh đất hẹp của chính mình vẫn cày cuốc, người
tà có thể lấy đi để mua bán đầu từ cho những tập đoàn tư sản nước ngoài năm,
bảy chục năm, lấy tiền bỏ túi nhà nước thì ít, còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ
một hai khóa nắm quyền, là có thể tậu nhà mặt phố, thị trấn, thành người của
lớp giàu sang. Còn dân đen thì phải rời nhà, rời cả mồ mả tổ tiên và được cái
tiếng là người có quyền làm chủ… Trong một bài thơ Đặng Xuân Xuyến khó nói hết
điều này nên sau những câu thơ khắc họa cái nghèo rất thực:
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Mà cuộc sống khổ nghèo trì trệ, tù đọng ấy cũng đâu yên ổn:
Nơm nớp âu lo
Đời như chiếu bạc
Nay hãy biết nay, còn mai chưa biết thế nào.
Hình ảnh trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng
quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi những vùng đồng bằng ít biến động bởi
thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba nghìn cây số biển dài còn bao làng quê
sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời
mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ
con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài
gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được lợi ích gì cho những người dân chài lưới
chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã
hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để
sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài, tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo,
so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh
hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” mình không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn
lo đến vậy cả một dải đất miền biển, nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ
được đọc một hai bài thơ đồng cảm với biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là
lòng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê
kiểng xóm làng sống không còn ấm áp “Tắt lửa tối đèn” như xưa.
Giữa không khí thơ như thế bài thơ của Đặng Xuân Xuyến như đốm
lửa tình người vẫn còn lửa hồng than đỏ, hàng ngày sống giữa những cạnh tranh
giành giật phố phường mà còn gửi được hồn mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ
loi là thật đáng quý:
Phiên chợ quê còn ẽo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn mẹt ngô
Í ới mời chào…
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi
Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái tình,
tình người muôn thuở.
Làng thơ Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền tước
ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết,
cũng thanh cao, đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời những
nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám
rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói.
Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi
chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú...
*.
Nhà thơ CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà
Nội.
Email: haicv08@gmail.com
“QUÊ NGHÈO” -
NGHÈO ĐẾN XÓT XA CÕI LÒNG
Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường được ông chủ
nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh Pháp Á. Vì
vậy, dần dà, tôi đã thuộc được lời và âm điệu của những bài ca mà tôi yêu
thích, trong đó có bài “Quê nghèo” của Phạm Duy mà tôi có
cảm giác như cái quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính là quê mình,
cũng “không xa kinh kỳ sáng chói”, cũng “có lũy tre
còm tả tơi”…
Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn không còn
được nghe đài Pháp Á nữa, không phải vì không còn trọ học mà vì dân chúng chỉ
được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những bản nhạc bấy lâu đã thuộc trôi dần vào lãng
quên trước nỗi vất vả kiếm sống của một thời trai trẻ cùng sự cấm đoán hát
những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các làng quê được khơi dậy phong trào hợp tác
xã, lòng người phơi phới hát vang lời ca "Dân có ruộng dập dìu hợp
tác/ Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê...". Vì
thế hai tiếng “Quê nghèo” cũng lặn mất tăm trong
tâm trí của tôi.
Ai hay, hôm nay hai tiếng “Quê nghèo” lại
hiện lên rõ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm “Quê nghèo” một
thời vang bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ “Quê nghèo” còn
như mới tinh nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!
Bài thơ Quê nghèo gồm 4 khổ chính, khổ
nào cũng cất lên câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một
tiếng thở dài buồn thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ
chính và 2 câu thơ kết đã phô ra 5 cái nghèo lắm:
Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc
sống của người dân quê tôi:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu thơ liên
tiếp biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo nàn mà không gì
có thể thay đổi được qua năm tháng.
Tuy nhiên, vẫn lác đác nhà tranh thì phần nào
còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn tiếng thở dài những
chiều giáp hạ t/ Vẫn bát cơm chan mồ
hôi mặn chát” thì không dễ gì thoát được khi mà người dân quê đã lam lũ
dốc kiệt sức vào việc kiếm ăn và đã phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm
thóc, vậy mà hạt gạo không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ
tư phải tiếp nối:
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Và biết bao tuổi thơ lâm vào cảnh:
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
Rất dễ hiểu ra, không phải là cánh cò bay lả bay
la/ bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh
cò trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là
những cánh cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…
Bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến
hôm nay nhắc tôi nhớ lại bản nhạc Quê nghèo từ năm 1948
của Phạm Duy với những cảnh mà từng ấy năm đã qua không một ai có thể vẽ lên
hình ảnh môt quê nghèo tuyệt vời đến vậy: lũy tre còm tả tơi, những
ông già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy... Rồi là một tiếng kêu
thống thiết:
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy
Nhưng trong tiếng kêu thống thiết ấy vẫn còn có niềm vui
là nồi cơm độn đầy ngô. Người mẹ trẻ nghèo khó dẫu cũng thở dài nhưng trẻ thơ
vẫn được đi vào giấc ngủ bằng sự vỗ về yêu thương của mẹ:
Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi
Sau hơn 60 năm đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội rồi lại
thực hiện đường lối đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy
ấm no, hạnh phúc. Ai ngờ Quê tôi của nhà thơ, một làng quê của một
tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây số,
một vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với Phố Hiến, một thương cảng đô hội
quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố
Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn chỉ là nhà tranh, là
tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn len vào giấc ngủ của
người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ của con trẻ.
Quê tôi nghèo lắm còn được phơi bầy
không giấu giếm trong cảnh chợ làng:
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Hàng hóa chỉ có thế, không thấy con tôm, con cá, con gà, miếng
thịt lợn…
Chợ quê không nhiều người và phong phú hàng hóa như chợ huyện,
chợ tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ quê không chỉ là nơi đổi chác mua bán
mà đối với dân làng còn là một nơi gần gụi thân thương chung của mọi người đồng
thời cũng là một sắc thái riêng của văn hóa làng trong văn hóa chung của dân
tộc. Bởi thế từ nghìn đời nay, bao người ao ước: Muốn cho gần chợ
mà chơi / Gần sông tắm mát, gần nơi đi về
Nhưng bây giờ cái chợ quê của nhà thơ chỉ còn là một cái
chợ “èo ọt” với vài dăm món hàng rẻ tiền như nải chuối, mớ rau, mẹt
sắn mẹt ngô thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như vắng hoe:
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Kẻ bán người mua, tất cả đều chung một tâm trạng buồn chán trước
một phiên chợ đang tàn tạ không còn chút sự sống:
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cõi lòng
khi thấy hình hài lũ trẻ:
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Nhìn lũ trẻ Quê nghèo trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng
dưng tôi nghe văng vẳng tiếng hát trẻ trung trong câu ca dao: Gió đưa
gió đẩy… về rẫy ăn còng / Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…
Rồi lại ùa về thêm trong tôi những lời kể của nhà văn Tô Hoài: “cái thuở bé sao
mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi chim họa mi. Bán không
hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi
hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm
ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến vẫn còn tứa nước rãi. Hôm nắng hanh
thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình, chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo,
rắn nước, rắn mỏng không có nọc độc, thịt mềm như thịt gà con luộc..."
(trích Chiều chiều).
Bây giờ đâu còn dễ kiếm được con còng, con cá, con cua đồng, đâu
còn bắt được châu chấu, chuột đồng, rắn ráo, rắn nước rắn mòng, đâu còn hái
được quả sấu quả nhót nơi quê nhà…nên lũ trẻ mới ra cái hình hài, cá mắm mốc
meo đáng thương kia.
Những thân hình đói khổ ấy làm sao chứa đựng được những tâm hồn
lành mạnh mà trong họ chỉ có:
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Với sự sống quẩn quanh chật hẹp tù hãm như những:
con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình
Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn gốc của nông
nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu?
Hãy nghe nhà thơ cắt nghĩa:
Trước hết là nỗi khổ đau truyền đời chưa dứt:
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Và giờ đây cộng thêm:
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Ô hay, sao lại là tội của chiếc cổng làng dựng lên thật
đẹp ấy?
Cổng làng có từ xa xưa ở làng quê Việt Nam. Ngoài ranh giới phân
chia, cổng làng thể hiện rõ hồn cốt của làng. Nó được dựng lên để bảo vệ làng
khi có giặc giã, trộm cướp và thường được dựng bằng tre, nối liền với những lũy
tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng làng có điếm canh, ngày cổng mở để dân
làng đi lại, đêm làng cử người canh ở điếm, kiểm tra người lạ vào làng. Những
chiếc cổng làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ ca với những nét đẹp giản đơn mà thơ
mộng:
Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre
(Bàng
Bá Lân)
Giờ cổng làng xưa không còn nữa. Quê thì nghèo rớt mồng tơi mà
người ta lại xây cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng không còn là nơi thông
báo cho người khác biết về địa giới hành chính của làng nữa mà dường như chỉ để
khoe mẽ:
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Và chính vì thế, người ta đâu biết:
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài thơ kết thúc với hai câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba
tiếng: Quê tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa
hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:
Nghèo cả
giấc mơ
Đến giấc mơ cũng nghèo thì nói gì đến hoài bão ước mơ lớn mà
biết bao sự đổi thay tốt đẹp ở đời thì chỉ thuộc về những người có hoài bão,
biết ước mơ!
Trong muôn vạn bài thơ của các kiểu người người làm thơ, nhà nhà
làm thơ ngày nay với tràn ngập những bài thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích,
thậm chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc, thì bài thơ Quê nghèo của
Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng được những người yêu thơ đích thực đón
nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương, nhà thơ đã không câm lặng mà đã cất lên
những tiếng thơ chân thật và đầy xúc động thể hiện những nỗi xót lòng đối với
làng quê, với người dân quê của mình. Những tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy
cũng là tiếng nói chung cho nhiều người đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát
cảnh đói nghèo.
*
Sài Gòn 17-06-2016
Tác gia, Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
“QUÊ NGHÈO” -
XÓT XA NHỮNG TIẾNG LÒNG
Ngoài kia Ngâu đang rả rích. Trong này, tôi cũng đang lặn lội
“về” với Quê Nghèo của
Đặng Xuân Xuyến!
Mà cũng lạ, cái quê này ở đâu vậy nhỉ? Cố tìm một địa danh mà
chẳng thấy. Thì ra ai đọc Quê Nghèo cũng liên
tưởng đến quê mình... củ khoai hạt lúa, chân chất mộc mạc, xa thương
gần lại càng thương.
Tác giả đã nói hộ mọi người:
Quê tôi nghèo lắm
(…)
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu ...
Đọc hai câu thơ này giống như vế đối, lặp từ ĐỜI càng làm nặng
thêm cái vất vả của bậc sinh thành. Tác giả có thể thay: cha suốt ngày lam lũ
... để tránh lặp từ nhưng may quá tác giả đã không làm như vậy! Đọc đến đây làm
chúng con thấy chua xót mà cũng lăn tăn về trách nhiệm của mình nhưng có ngờ
đâu đó là định mệnh mà xã hội làm chưa trọn!
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ ...
Trời ạ, khi đói chả ai ngủ được, họ nằm trằn trọc, ước ao có
được củ khoai, miếng sắn để quên đi bụng réo cồn cào... một lối tư duy rất thơ
mà rất thực, cái đói cứ len vào giấc ngủ mà không làm gì được vì biết chắc chắn
nhà mình chẳng còn gì cả, càng cố quên đi nó càng luồn lách, len lỏi vào tận...
dạ dày! Chả còn gì để mà tự an ủi nữa, đến: Cánh cò (còn
phải) bấu bíu lời ru!
Câu thơ đến đây làm nghẹn lòng người đọc, thương cho cánh cò rồi
lại thương cái quê nghèo, thương cái thân phận của mình.
Có người nói: muốn biết vùng ấy thế nào thì nhìn vào chợ. Thì
đây: phiên chợ èo uột,
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua.
Ế bán
Chán mua
Lại một lần nữa cách diễn tả như vế đối, cô đọng hết cỡ, ngữ
điệu dân gian... làm ta nghe phảng phất nhớ cụ Nguyễn Khuyến - Tú Xương. Thành
công của bài thơ nằm ở đây. Tài thật, tôi biết đây là ngẫu hứng, tưởng tượng
thôi nhưng thật tuyệt vì tác giả đã hòa hồn vào Quê Nghèo mới
tinh chiết ra được như vậy.
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.
Người nông dân thua trận ngay trên quê mình, mỏi cổ chồn chân
... miết rồi vẫn vậy.
Đặng Xuân Xuyến ơi:
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”
- (Trần Đăng Khoa)
Đặng Xuân Xuyến đã làm tôi liên tưởng so sánh về sự hòa hồn với
quê hương tới mức đồng thể!
Ngạc nhiên thật. Thơ không giấu được về con người làm ra nó, có
thế nào nó rải ra một cách vô tư và công bằng.
Bẵng đi... đến thời nay (mặc dù tạm quên đi chị Dậu, Giáo Thứ):
Chiếc cổng làng dựng nên thật đẹp
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai...
Để:
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ!
Quê tôi nghèo
Nghèo (đến) cả giấc
mơ!
Đúng là hình ảnh làng văn hoá, đổi mới hiện nay rồi nhưng sao ta
vẫn nếm được vị chua chát, bất mãn làm vậy. Rất may đây là cách chỉ ra gián
tiếp nguyên do làm cho quê nghèo mãi nghèo! Ta đã thấy manh nhà một tư tưởng
mới, cách sống không cam chịu và chẳng thèm thích nghi nữa.
Con cò: bấu víu lời ru
Con người: nghèo cả giấc mơ!
Mơ chả mất tiền, không ai đánh thuế, bắt vạ... ấy mà cũng chả
dám mơ ước đổi đời ......
Ngoài kia giọt mưa thu đã ngừng rơi
Còn trong lòng mưa vẫn rơi sùi sụt!
Thương cho những quê nghèo với những xót xa tiếng lòng như
trong Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến!
*.
Nhà Nghiên cứu Văn hóa BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng,
t/p Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@
ƯU ĐIỂM VỀ MẶT THI PHÁP
CỦA “QUÊ NGHÈO”
- Trích từ bài: BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP -
Bài này (Quê Nghèo) nhà phê bình Nguyễn Bàng đã
viết lời bình với tựa Quê Nghèo - Nghèo Đến Xót Xa Cõi Lòng.
Còn ông Bùi Đồng cũng bình bài thơ nhưng chọn cái tựa khác hơn một tý: Quê
Nghèo - Xót Xa Những Tiếng Lòng. Giống như Châu Thạch, hai ông cũng chỉ
bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp.
1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài
không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo
một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm
chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối
giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân
bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự
do, thoải mái.
2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không
chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao
cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự
nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp
điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Và:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả
hai.
3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối
tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu
thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ
nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ
hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra
từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý,
mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu
thơ nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong
thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào,
và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.
Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo”
Tôi đã để ý đến “cách làm thơ” của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu
mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh rất nặng. Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà
thơ khác) đã đi trước rất nhiều người trong cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh
trang web của anh và một số trang web lân cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của
anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng
hình như “không có duyên”; tôi thường đi sau thiên hạ một bước.
Hôm nay, nhân dịp viết loạt bài về hồn thơ tôi để ý đến
bài Quê Nghèo của anh. Thật tình, đây là bài thơ còn
khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm
thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn. Nhưng rõ
ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài
thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia
quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức
gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng. Mặc dầu bài thơ đã có (ít nhất) hai người
bình nhưng cả hai (Nguyễn Bàng và Bùi Đồng) đều không bàn thi pháp nên kỹ thuật
thơ của anh, cái “tài thơ” của anh bị lãng quên.
Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để
viết bài thơ để đời của mình. So với Ngọc Mai - người tôi nói đến ở bài 2 - anh
có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc
sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế
trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của
đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ
thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không
được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời
một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.
*
Nhà Phê bình Văn học PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
CHIẾC CỔNG LÀNG ĐẶC BIỆT TRONG BÀI THƠ
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
- Trích từ bài: THẾ THÁI NHÂN TÌNH TRONG THƠ
ĐẶNG XUÂN XUYẾN -
Quê nghèo là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến.
Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo,
cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt
rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác
giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê
nghèo - lại chỉ
được bình thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng
câu chữ nhiều hơn thế.
Tôi nghĩ chiếc cổng làng của Quê nghèo không
còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của thể
chế đã giam hãm, trói buộc người dân trong đói nghèo, tù túnǵ... Đấy
là tiếng kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau của chế độ đã đè nặng lên cuộc
sống cơ cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “Sừng sững bê
tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai” cũng khiến người đọc
liên tưởng tới hiện tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các loại tượng đài để đục
khoét ngân khố quốc gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm đắng ngàn cay” của người
dân. Thật đau xót khi biểu tượng chiếc cổng làng - biểu tượng ngàn đời của văn
hóa làng xã Việt Nam đã bị thể chế hóa, để không chỉ “Giam hãm đời người/ Tù
túng giấc mơ.”, mà còn đầy đọa, đẩy cuộc sống người dân xót xa đến mức:
“Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ.
*.
Nhà thơ ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu
Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
VÀI Ý KIẾN QUANH VIỆC MỔ XẺ BÀI THƠ:
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Chưa bàn đến hay, không hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó
chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:
“Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...”
Đây là chủ quan của tác giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như
vốn có.
Cảnh quê nghèo này nó nhang nhác các bài thơ tả cảnh đồng quê ở
đâu đó cánh cò, cánh vạc, đói, rét. Từ ngày cách mạng tháng 8 thành công, dân
cũng còn nhiều người đói khổ, tuy nhiên, những tá điền được xóa nợ, nhiều người
nông dân đã đổi đời, con em họ được đi học, thậm chí được giữ nhiều trọng trách
trong xã hội. Tuy nhiên xã hội nào cũng có mặt này mặt nọ, nên nhìn những mặt
tích cực.
Với bác PHẠM ĐỨC NHÌ
Dù cho tôi không biết bác là ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình
của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn và khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc
Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào
đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca”.
Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc
lúc yêu đương phải không bác?
“Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện
để viết bài thơ để đời của mình.”. Bác ấy rất chân tình và thẳng thắn hơn
nữa đưa ra những nhận xét tích cực chứ hoàn toàn không hạ thấp người nghe.
Nếu nghe câu này chắc chắn lúc đâu tác giả không tránh khỏi bị
sốc vì có người chê đứa con của mình ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật
tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm,
hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để
bài thơ hay hơn.”.
Điều này rất thẳng thắn, tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của
bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc của từng người, nhất là thơ mới, không
theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.
Tuy nhiên bác vẫn thừa nhận những điểm mạnh của bài thơ: “Nhưng
rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho
bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi
“gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ
mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng.”
Nếu không thực sự yêu mến nhà thơ thì bác ấy đã không mất công
để mà ngồi bình làm gì, bác ấy góp ý như là góp ý cho một đứa con trai.
“1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý
thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu
khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ
khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay
trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài
thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.
2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các
con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với
nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần
đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái
như ăn chè vừa đủ độ ngọt.
3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy
thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”.
Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng
trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc
tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng
không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đã có
xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ
mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết
thiếu ấn tượng.”
Dù muốn hay không muốn bác ấy cũng đưa ra lời nhận xét rất chân
tình: “Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.”
Tôi không hiểu nhiều về bóng đá, và cũng chưa có nhiều kinh
nghiệm sống nhưng tôi nghĩ là bác Phạm Đức Nhì có một nhận thúc khá dày dặn về
cuộc sống, khi ví thơ với bóng đá, cho dù đôi lúc vẫn còn giữ thói quen của
những nề nếp cũ: “anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn
phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu
pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng
phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp
tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó
chịu, không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của
anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.”
Với CảnhThư Sg:
Người thực sự chấp nhận được sự suy nghĩ khác với mình là người
thực sự tự tin và bao dung, hiểu đời, tôi không biết tác giả đã từng là một
người lính, tác giả nghĩ thế nào?
Nhưng lời bình dù chỉ trích của các nhà thơ đem lại giá trị cho
bài thơ rất cao? Chắc chắn nhà thơ hiểu được điều này nên không lên tiếng phản
bác?
Theo như bạn viết: “có người đọc thơ cho là may rồi. Mà người
đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì
bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi! Nay bài thơ Quê Nghèo có
tới 3 người bình, thiết tưởng thế là rất đáng mừng cho nhà thơ và cho bài thơ
rồi”.
Bạn nói rất đúng, nếu không yêu thì bình làm chi? Còn việc bạn
cho rằng : “Ở một cường quốc thơ như Việt Nam”, không biết bạn có chủ
quan hay không?
Đành rằng bây giờ không chỉ có kẻ sỹ hay người học chuyên văn,
giới văn sỹ đọc thơ: “người đọc thơ cũng chả
ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay,
chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!” tuy nhiên dù là một người ngoại đạo
thì tôi nghĩ, ai cũng có thể đọc thơ, cảm nhận thơ theo cách riêng của mình.
Nhưng tùy theo trình độ và chuyên môn mà người bình có thể đánh giá bài thơ đó
theo cách riêng của họ. Còn theo bản thân tôi một bài thơ có ý tứ hay người
nghe cảm thụ, ngoài ra còn có luật, do đó thơ Lục bát, thơ thất ngôn bát cú,
thơ Đường Luật, thơ thất ngôn trường thiên phải theo đúng luật. Cái hay, cái
tài tình cái thông minh của người làm thơ là ở chỗ đó? Ngoài ra qua thơ người
ta có thể hiểu thấu được tâm tính và khí phách của người làm thơ. Đố ai tìm
được chỗ sai nào trong bài thơ: Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan!!!
Vài ý kiến của một người ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không
thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không đến tận nơi.
*
Ngày 05 tháng 04 năm 2018
NGUYỄN BÍCH THỦY
facebook: Nguyen Bich Thuy
VỀ CHIẾC CỔNG LÀNG TRONG BÀI THƠ
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tôi vừa hân hạnh đọc bài viết “Vài ý kiến quanh việc mổ xẻ
bài thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến” của tác giả Nguyễn Bích Thủy ở
Bỉ.
Tôi thích bài viết nầy vì lời văn điềm đạm, dễ thương. Trong bài
chị Nguyễn Bích Thủy trích dẫn lại câu chữ của nhà thơ Phạm Đức Nhì thì nhiều
mà ý kiến của riêng chị thì lại ít. Không sao, đó là phong cách riêng của mỗi
cây bút. Tôi chỉ không thống nhất với đoạn đầu chị Nguyễn Bích Thủy đã cho Đặng
Xuân Xuyến chủ quan khi cho rằng chiếc cổng làng “Giam hãm đời người/ Tù
túng giấc mơ”. Chị Nguyễn Bích Thủy cho rằng “sau cách mạng tháng 8 nông
dân đổi đời….”. Nguyễn Bích Thủy quên rằng nông dân đổi đời nầy thì phải
nhận lại đời khác mà Đặng Xuân Xuyến là người lớn lên ngay trong làng, chứng
kiến được sự đổi đời mới đó lại làm cho “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ”
có khi còn hơn trước. Điều Đặng Xuân Xuyến nói cũng giống như Trần Dần nói: “Tôi
bước đi/ Không thấy phố không thấy phường/ Chỉ thấy mưa sa trên lá cờ đỏ”
đã làm chế độ tẩy chay ông, phải nhận chịu nhiều đau đớn suốt một đời văn.
Tôi nhất trí với cách nhìn của nhà thơ Đỗ Anh Tuyến trong bài
viết “Thế thái nhân tình qua thơ Đặng Xuân Xuyến” khi cảm nhận về
bài thơ Quê Nghèo:
“Quê nghèo là
một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn
đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao
năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ
chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng
chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong
khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.”
Nhà thơ Đỗ Anh Tuyến cho rằng chiếc cổng làng của Quê
nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu
tượng của tình trạng đất nước hiện nay. Đây là tiếng kêu thương thảm thiết về
nỗi đau đã đè nặng lên cuộc sống của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “sừng
sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ
tượng đài/ Nghạo nghễ trần ai” cũng là một trong nhiều hiện tượng gây hệ
lụy cho người nông dân.
Với tôi những hiện tượng đó khó mà nói hết được trong một bài
thơ hay trong một vài trang giấy.
Xin nhờ Đặng Xuân Xuyến gởi đến chị Nguyễn Bích Thủy bài góp ý
nầy với một phần trong bài bình luận “Đọc Thơ Đặng Xuân Xuyến”
của tôi có một đoạn nói về bài thơ Quê Nghèo:
“Bài thơ “Quê Nghèo” không có sự bạo miệng của
kẻ ngất ngưởng say, ngược lại là những giọt lệ rơi vào, là tiếng khóc nghẹn
ngào trong tâm tình thổ lộ. Tôi lại mạn phép tóm gọn bài thơ dài 41 câu bằng 7
câu thơ của chính nó:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài thơ cho ta thấy một nỗi đau truyền kiếp từ thế kỷ 19 đến
nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà thơ không nói rõ nhưng nó đã “giam hãm đời người”
ngay “từ trong giấc mơ”. Như thế nỗi đau nầy không chỉ là nỗi đau vật chất mà
còn là nỗi đau tinh thần. Ngày xưa chị Dậu nghèo lắm về vật chất nhưng không ai
cấm ước mơ. Bây giờ “Giam hãm đời người / Tù túng giấc mơ”, nghĩa là có thêm
cái “nghèo lắm” tinh thần.
Bài thơ làm thức tỉnh cơn mê của những người nhìn vào mặt phải
mà không thấy mặt trái bao giờ.”
Đây chỉ là những lời thảo luận thân tình với nhau vì tôi thấy
mến bút pháp của Nguyễn Bích Thủy chớ không phải là tranh biện.
Thân ái chúc nhà thơ Đặng Xuân Xuyến và tác giả Nguyễn Bích Thủy
bình an trong đời, thăng tiến và viết mỗi ngày thêm hay./.
*.
Nhà Phê bình Văn học CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.
TRAO ĐỔI VỀ “QUÊ NGHÈO”
VỚI CÔ NGUYỄN BÍCH THỦY
Với bài viết Vài Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê
Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô Nguyễn Bích Thủy đã có nhã hứng ghi
lại một số nhận xét về Mục thứ 5 - Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp Trong Bài
Thơ “Quê Nghèo” - trong bài viết Bình Thơ Không Bàn Thi
Pháp của tôi. Nhận xét của cô
thiên về cảm tính nên dù có nhiều chỗ cô phân tích rất sâu sắc, nhiều tính
thuyết phục, vẫn còn vài điểm tôi thấy cần trao đổi với cô để làm rõ vấn đề.
Bài viết này chỉ nhắm vào những điểm cần thiết đó.
Nguyễn Bích Thủy:
Chưa bàn đến hay, không hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó
chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:
“Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...”
Đây là chủ quan của tác giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như
vốn có.
Phạm Đức Nhì:
Nếu cô Nguyễn Bích Thủy chỉ nói “nhưng tôi không thích tứ thơ
này” thì chẳng ai dám có ý kiến gì. Vì thích hay không thích cái gì đó là
quyền riêng tư của mỗi người. Cái sai của cô là ở câu “Đây là chủ quan của
tác giả”. Nếu cái gì trong thơ cũng là “thực tế khách quan”, cũng “phải
đạo”, cũng hợp với lẽ đời thì cái loại thơ ấy không đáng để ý, không phải
là thứ thơ mà nhân loại đang hướng tới.
Dĩ nhiên trong thơ cũng có những nhân tố khách quan, nhưng những
ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả là chính. Nhiều khi những cái khách quan
được đưa vào bài thơ chỉ để làm nổi bật những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác
giả. Chính “chủ quan của tác giả” mới làm bài thơ có cá tính (không chỉ
viết về những cái ai cũng biết rồi), mới làm nên giá trị của bài thơ, miễn là
những “chủ quan của tác giả” hợp lý hợp tình và những sự kiện khách quan
cũng hợp tình hợp lý.
Câu nói của cô Nguyễn Bích Thủy có hai phần; phần đầu
đúng, còn phần sau thì sai nặng.
Nguyễn Bích Thủy:
Dù cho tôi không biết bác là ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình
của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn và khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc
Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó
của anh ra mổ xẻ để ‘mách nước’ cho anh bứt phá chạy mau đến ‘bến bờ thi ca’”.
Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc
lúc yêu đương phải không bác?
Phạm Đức Nhì:
Thích bóng đá nên có một thời gian ngắn tôi được một người bạn
mời đi xem những trận đấu của các đội tuyển xã tranh vô địch cấp huyện. Mục
đích của anh bạn là muốn nhờ tôi “xem giò, xem cẳng” những cầu thủ trẻ. Nếu
thấy em nào “đá có nét”, có triển vọng anh sẽ tìm cách rủ rê, mời gọi về làm
lực lượng trừ bị cho đội tuyển của một ngành công nghiệp. Anh cho tôi biết hãy
chú trọng vào cách giữ bóng, che bóng, đi bóng, lừa bóng, khả năng sút bóng xa
của các em, còn những kỹ thuật khác khi tuyển về sẽ huấn luyện thêm.
Trong thơ cũng vậy. Có thể nói ngoại trừ cảm xúc ở tầng 3
- thứ cảm xúc mà nếu lên đến đỉnh điểm khi bài thơ có cao trào sẽ thành hồn thơ
- là không ai có thể dạy ai đưa nó vào bài thơ được. Còn thì - đặc biệt ở phần
thi pháp, mang tính kỹ thuật - cái gì cũng có thể học hỏi được. Dĩ nhiên, học
là học lý thuyết. Bước vào thực hành, mỗi người một vẻ, kẻ thất bại, người
thành công, chẳng ai dám nói mạnh.
Riêng với Đặng Xuân Xuyến, tôi đã “xem giò, xem cẳng”, đọc thơ
của anh khá nhiều và đã “chấm” sự đột phá trong thi pháp của anh. Trong
bài Quê Nghèo, về hình thức anh đã đạp đổ truyền thống, vượt
qua thơ mới, đang trụ ở thơ mới biến thể mà những sợi dây níu kéo đang đứt dần
để vươn tới một thể thơ “chưa có tên” - vần vừa độ ngọt, tứ thơ thông thoáng,
nhịp độ thay đổi theo cảm xúc đang chảy thành dòng ... - nếu viết trong tâm thế
cực kỳ phấn khích có thể thẳng hướng “Bến Bờ Thi Ca”.
Những khuyết điểm, sai phạm về mặt câu chữ, ngay cả thế trận
cũng có thể sửa chữa không mấy khó khăn, nhưng cái tay nghề vững vàng đã trở
thành thói quen trong thi pháp của anh không thể một sớm một chiều mà có được.
Nếu Đặng Xuân Xuyến nghe lời “mách nước” của tôi, nhận ra khả năng và thế mạnh
của mình, anh sẽ tự tin hơn khi viết những bài thơ kế tiếp. Với thơ thì không
nói chắc được, nhưng anh Đặng Xuân Xuyến còn trẻ, thời gian dành cho thơ còn
dài, việc để lại cho đời một đôi bài thơ sáng giá không phải là điều không
tưởng.
Cô Nguyễn Bích Thủy cho rằng: “Điều này chả ai giúp ai
được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương” là
do cô đọc thơ chỉ như người “cỡi ngựa xem hoa”, chưa đi sâu nên chưa hiểu, chưa
biết.
Nguyễn Bích Thủy:
Nếu nghe câu này chắc chắn lúc đầu tác giả không tránh khỏi bị
sốc vì có người chê đứa con của mình ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa:
“Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai
phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt
để bài thơ hay hơn.”.
Điều này rất thẳng thắn, tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của
bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc của từng người, nhất là thơ mới, không
theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.
Phạm Đức Nhì:
Bình thơ là công việc nặng tính chủ quan. Người bình đem kiến
thức về thơ, cách đánh giá thơ ca của mình để thẩm định giá trị nghệ thuật của
bài thơ. Dĩ nhiên, ngoài một số rất ít những tác phẩm hoàn hảo, mỗi bài thơ - “dù
là cảm xúc của từng người” - đều có chỗ hay, chỗ dở, có khi có cả những chỗ
sai phạm. Nhiệm vụ của người bình là chỉ ra những chỗ hay, vạch ra những chỗ
dở, chỗ sai phạm để cuối cùng cân nhắc, khen, chê bài thơ cho đúng mức.
Thí dụ bài Quê Nghèo của Đặng Xuân
Xuyến, tác giả đã có mấy câu nói về “Lũ trẻ” trong làng:
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Và “Lũ Trai”:
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Còn “lũ con gái” thì sao? Đặng Xuân Xuyến đã quên nên để độc giả
vừa đọc vừa mỏi cổ ngóng chờ. Đây cũng là một chỗ sai phạm.
Câu thơ: “Tù túng giấc mơ” trong đoạn: Chiếc
cổng làng thành tai hại/ Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ. theo tôi,
thật tuyệt vời. Nhưng đã làm 2 câu: Quê tôi nghèo/ Nghèo cả giấc mơ. mất tính bất ngờ và nhạt
hẳn đi về mặt ý nghĩa. Vụng về trong sử dụng điệp ngữ đã làm hỏng 2 câu kết. Có
thể nói trong Quê Nghèo đội của Đặng Xuân Xuyến đi
bóng, lừa bóng, chuyền bóng rất điệu nghệ nhưng khi đến sát cầu môn đối phương
thay vì ghi bàn thắng lại đá ra ngoài.
Tôi, ở đây không bình thơ mà chỉ bàn đôi chút về thi pháp nên
không đi sâu thêm nữa. Còn nói như cô Nguyễn Bích Thủy “nhất là
thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì” thì đúng là một phát
biểu kiểu “điếc không sợ súng”. Cô chỉ cần tìm đọc kỹ vài bài thơ mới
thì sẽ nhận ra là mình ngây ngô đến cỡ nào.
Nguyễn Bích Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét