Thanh Hà
Ngày xưa tôi rất thích xem phim chiếu tại rạp, nội nhìn áp phích quảng cáo trương lên mặt tiền rạp hát với hình ảnh của các minh tinh gạo cội nam nữ đóng vai chính, tên đạo diễn, màn ảnh đại vĩ tuyến, technicolor đã thấy thu hút hấp dẫn quá chừng.
Theo tôi biết thì phim ngày xưa hầu hết mọi cảnh được dàn dựng tái tạo gần giống thực ngoài đời như có thể, vô cùng nguy nga tráng lệ với hàng ngàn diễn viên quần chúng, ít dùng kỹ xảo biến hoá tài tình như trong thời đại internet, kiểu chỉ cần 1 vài binh sĩ cũng có thể nhân thành đội quân hàng trăm hàng ngàn theo ý muốn.
Chẳng hạn trong vô số đại tuyệt phẩm mà tôi may mắn được xem, có phim sử thi về Nữ Hoàng Cléopâtre, 69-30 trước Công Nguyên do Mỹ sản xuất, 4 giải Oscar dài 4 tiếng với các tài tử Elizabeth Taylor, Richard Burton, Rex Harrison…Là bộ phim được xem là ngông cuồng nhất mọi thời đại bởi chi phí cao ngất ngưỡng, bởi các cảnh tái tạo vĩ đại huy hoàng vượt tưởng tượng khiến nhà làm phim suýt bị phá sản. Dù xem đã lâu nhưng tôi vẫn còn choáng ngợp mỗi khi nhớ cảnh minh tinh Elizabeth Taylor đóng vai Nữ Hoàng Ai Cập ngồi trên tượng nhân sư khổng lồ đặt trên chiếc xe do đoàn quan quân kéo tiến qua cổng thành Luxor, Cairo-Ai Cập- *(tôi không chắc lắm về địa điểm, Th.) xung quanh vài ngàn diễn viên quần chúng. Bức tượng cao to đến nổi hình dáng minh tinh chỉ là một nét chấm phá nhỏ bé khiêm nhượng khi quay toàn cảnh.
Minh tinh kiều diễm lộng lẫy, uy nghi xứng đáng là nữ hoàng thực thụ trong trang phục chiếc áo bằng vàng thật 24 carat, được phủ lớp choàng từ đỉnh đầu xuống thân như đôi cánh phượng hoàng, gắn kết các lông vũ đính hàng nghìn hạt cườm. Có tổng số 26 ngàn trang phục cho các diễn viên, trong đó 65 bộ dành cho Nữ hoàng.
Thời internet chưa ra đời, những phim lịch sử, tình cảm, chiến tranh, cao bồi, hài… với tên các tài tử lừng danh chiếu trên màn ảnh rộng trong rạp ciné có sức lôi cuốn mạnh mẻ khiến nhiều khán giả- trong đó có tôi- háo hức hể nghe phim nào vừa ra mắt công chúng ở xứ họ, là mong ngóng ngày các ông chủ rạp Saigon mua về chiếu cho khán giả xem, và rất kiên nhẫn chịu khó đứng sắp hàng có khi hơn cả tiếng để mua vé vào rạp.
Bởi phim-của-ngày-tôi-còn-trẻ hầu hết là những phim phù hợp với gu thưởng thức của mình, nên khi nhắc đến mỗi bộ phim nào đã từng xem, trong đầu tôi tái hiện vài quang cảnh nào, nhân vật nào gây ấn tượng nhất, rõ ràng như thể đang ngồi xem vậy (chỉ một vài cảnh trong bộ phim).
Nhưng theo năm tháng sự nao nức chờ đón xem phim rạp phai nhạt dần. Đến một giai đoạn tuổi nào đó thì người ta thay đổi ý thích là chuyện thường tình. Một trong những phim cuối cùng tôi còn đến rạp xem cùng chồng là phim Pháp Nữ Hoàng Margot phỏng theo tiểu thuyết của Alexandre Dumas do các tài tử Isabelle Adjani, Vincent Perez…đóng cách đây lâu lắm rồi.
Và lúc kỹ thuật mới ra đời, khán giả được phát kính 3D đeo vào mắt để xem hình ảnh ba chiều, với hiệu ứng lửa, nước, tiếng gầm, quái vật chồm tới tấn công y như thật nên dù biết là giả tạo vẫn khiến khán giả sợ hãi kinh hoàng rú hét ầm ỉ rạp, hình như là phim Jurassic Park, nhớ không rỏ? Đó là lần cuối cùng tôi xem ở rạp.
Trong số những phim- tôi-xem-ngày-còn-trẻ, tôi còn nhớ có một phim lịch sử- mạo hiểm do Mỹ sản xuất: The Vikings do các tài tử Kirk Douglas, Tony Curtis, Janet Leigh… đóng.
Danh từ Viking để nói về những nhà thám hiểm, thương gia, chiến binh lẫn hải tặc từ vùng Scandinavie (bao gồm Na Uy, Thuỵ Điển, Đan Mạch) hoạt động từ thế kỷ VIII đến XI (8-11). Họ thường tuỳ theo nghề hay nhiệm vụ theo các chuyến thám hiểm vùng đất mới, hoặc cướp bóc hay buôn bán… rải rác các vùng Bắc Âu, Địa Trung Hải, Bắc Phi…
Trong ký ức tôi lờ mờ ẩn hiện hình ảnh các chiến binh lực lưỡng, hung bạo mạnh tay chèo trên các chiến thuyền với hai đầu mũi hình đầu rồng uốn cong ngẩng cao lên trời rất chi là dũng mãnh nhưng vẫn không kém phần duyên dáng. Âm thanh hàng chục, trăm tiếng chèo khua nước, tiếng thở, tiếng hò hét của các chiến binh, tiếng thanh kiếm va chạm nhau…lẫn với nền nhạc khiến khán giả cảm nhận được sự khốc liệt bạo tàn của trận chiến một mất một còn.
Thuyền đóng bằng gỗ cây sồi dài chừng 10m, đặc điểm phần thân nằm rất ít dưới mực nước nên di chuyển qua các vùng nước nông dễ dàng. Nhờ tốc độ nhanh nhẹn nên chiến binh Viking mới tấn công bất ngờ táo bạo vào hàng ngũ đối phương.
Thuyền còn trang bị các cánh buồm dùng sức gió khiến thuyền chạy nhanh hơn khi ra biển.
*Hình như tôi ít nhiều có “máu phiêu lưu” trong người. Từ tiền kiếp tôi chắc thuộc bộ tộc Tzigane du mục hay sao ấy, cho nên sở thích (hobby) ưu tiên hàng đầu của tôi là được chu du năm châu bốn bể. Nói vậy thôi chứ các nước châu Phi tôi chưa hề đặt chân đến, mà cũng chưa sẵn sàng để đến. Nhưng biết đâu một lúc nào đó đổi ý thì tôi sẽ chọn thăm Mũi Hảo Vọng -Cap Town- quốc gia Nam Phi, quê hương của nhà cách mạng yêu nước sau trở thành tổng thống Nelson Mandela mà tôi rất ngưỡng mộ, tôn kính- đã quá cố-.
Lần đầu cách nay vài năm tôi đi cùng gia đình, bằng ngã hàng không từ phi trường Zurich-Thuỵ Sĩ đến phi trường Oslo- Gardermoen Na Uy chỉ mất 2 giờ 30phút. Thăm hai nơi: Oslo và Verdens Ende (tiếng Na-Uy nghĩa là Tận Cùng Thế Giới) cách thủ đô 170km.
Lần thứ hai vào mùa hạ năm 2024 do đoàn du lịch tổ chức. Một người bạn thuyết phục rằng như vậy mình khỏi mất công lo lắng việc đặt khách sạn, ăn uống, chương trình thăm viếng những đâu..v..v.. rảnh rang tâm trí ngắm cảnh vật.
Chuyến du lịch kéo dài 9 ngày từ 14 tháng 7 đến 22 tháng 7 bằng nhiều phương tiện xe bus, xe lửa, du thuyền, ferry tổng cộng khoảng 8 hay 9 ngàn km. Phải mượn đường qua Đức, Thuỵ Điển để vào và ra Na Uy.
Sơ lược đôi điều về vương quốc Na Uy.
Na Uy dịch từ Norway(tiếng Anh), Norvège (Pháp).
Là quốc gia thuộc Scandinave bao gồm nhiều núi non, băng tuyết, vịnh hẹp (fjord)*
*Fjord: tiếng Na Uy, theo định nghĩa là một vịnh biển hẹp dài và sâu, nằm giữa hai bên là dốc đá cao thẳng đứng được tạo từ băng hà.
Các fjord có nhiều ở các quốc gia Bắc Âu trong đó có Na Uy, rất ngoạn mục hùng vĩ.
Lục-địa-già Châu Âu có 11 vương quốc (châu Mỹ được gọi Tân-lục-địa nghe thanh
tao trẻ trung trong khi châu Âu bị gọi là già, gợi hình ảnh xứ sở cằn cỗi toàn người già nua phong kiến cổ lỗ sĩ, hic hic) theo chế độ quân chủ lập hiến, tức vua hay nữ hoàng ngự trị, nhưng quyền hành thực sự trao cho chính phủ dân cử do thủ tướng đứng đầu, Na Uy cũng trong số đó (không như vài quốc gia Trung Đông Ả Rập, châu Phi…mọi quyền bính tuyệt đối nằm trong tay vua hay sultan).
Dân số Na Uy khoảng 5 triệu 600 ngàn người*, theo GDP được xếp hạng thứ 4 thế giới, đơn vị tiền tệ Krone. Diện tích khoảng 385.000 km2 (Việt Nam 331.690km2), đa số là núi non, sông băng, thác nước, fjord.
*Thuỵ Sĩ diện tích chỉ có 41.300 km2, dân số gần 8,5 triệu, GDP hạng 2.
Ủa, sao mình toàn kể chuyện xứ người mà không “khoe” quê hương thứ hai của mình tuy nhỏ bé nhưng phong cảnh tuyệt vời vậy nhỉ?
Đặc biệt vì ở gần bắc cực nên vùng phía nam mùa hè Na Uy mặt trời chiếu sáng 20h /ngày. Ngược lại, mùa đông có vài nơi phía bắc bóng tối bao trùm 24/24 kéo dài vài tuần lễ, phía nam ánh sáng được vài giờ mỗi ngày.
Hai lần đến Na Uy tôi ước sẽ được ngắm bắc cực quang, nam cực quang (aurora- borealis) trên bầu trời bắc, nam cực nhưng “số chưa gặp may mắn”, vì toàn đi vào mùa hè lại không đến đúng vùng có hiện tượng do bức xạ tạo thành dải lụa ánh sáng huyền ảo lộng lẫy đẹp vô ngần ấy, chỉ được xem qua hình ảnh truyền thông, báo chí.
A/- Oslo
Là thủ đô của Na Uy. Dân số khoảng 710.000 người. Thành lập từ năm 1048, từng bị hoả hoạn vào năm 1624. Thành phố quy tụ nhiều hoạt động ngân hàng, thương mại, công nghiệp, nhất là các trụ sở hàng hải ngư nghiệp quan trọng. Chúng tôi ăn cá hồi, cá nục–saumon, maquereau- toàn nhập từ quốc gia nầy. Tôi có dịp theo người quen ra bờ biển ở vùng biển cách Oslo 170 km câu cá nục với chỉ lưỡi không cần mồi rất ngoạn mục lý thú không tin được nếu không chứng kiến tận mắt.
Trong chuyến đi đầu, cũng vào mùa hè có nắng thời tiết mát mẻ, thời gian 1 tuần ở Oslo trung bình mỗi ngày chúng tôi tản bộ 20 km để viếng thăm hầu hết những địa điểm đáng xem. Các quốc gia châu Âu luôn cổ xuý, tìm giải pháp cho sự ô nhiễm môi trường, khuyến khích dân chúng hạn chế xử dụng xe chạy xăng dầu, tạo nhiều con đường dành cho xe đạp và bộ hành. Ta luôn thấy rất nhiều xe đạp trong các trung tâm thành phố Bắc Âu, Thuỵ Sĩ nhất là Hoà Lan gây cho tôi ấn tượng nhất với đủ kiểu dáng xe cũ, mới từ “đời ông Bành Tổ cho đến tối tân” mọi nơi khắp chốn.
Chúng tôi đã thăm:
–Pháo đài Akershus nằm trên 1 bán đảo cách trung tâm thành phố khoảng 500 m, xây từ thế kỷ 13 lúc đầu là pháo đài với những bức tường đá dầy bao bọc chung quanh, tháp pháo cao chót vót để bảo vệ các cuộc tấn công, từng bị vây hãm bởi quân Thuỵ Điển. Sau được chuyển thành lâu đài hoàng gia, giờ là điểm du lịch. Họ thường tổ chức lễ kỷ niệm, buổi hoà nhạc nơi nầy.
Mặc dù lâu đài trải qua nhiều thế kỷ mang sắc màu cổ kính theo thời gian nhưng vẫn giữ vẻ uy nghi trang nghiêm.
–Bảo tàng Lịch Sử Văn Hoá trong toà nhà cất kiểu dáng đặc sắc với mái lợp ngói, đầu hồi xây thêm đầu quái vật (rồng?) giới thiệu cách sống người Na Uy từ thế kỷ 16 đến nay.
–Hí Viện Opera, biểu tượng nổi tiếng của Oslo. Là nơi trình diễn nhạc opera và vũ điệu ballet. Nằm cạnh bờ vịnh Oslofjord gần trung tâm thành phố, với kiến trúc tối tân trên nền nghiêng dốc, bề mặt toà hí viện bằng đá granit và cẩm thạch trắng lấy từ Carrara của Ý, ngọn tháp phủ lớp nhôm trắng.
Nếu Sydney-Úc nổi tiếng với hí viện Con Sò thì người Na Uy cũng tự hào với hí viện của họ. Chúng tôi lên tận sân thượng để chiêm ngưỡng toàn cảnh thành phố và fjord, mái toà nhà trông giống khối băng sơn (iceberg)nhô lên từ mặt nước mở ra không gian rộng thoáng như gọi mời du khách dạo chơi.
Chúng tôi còn dung dăng qua nhiều địa điểm khác. Mỗi một toà nhà là một kiến trúc xây cất độc đáo như Toà Thị Chính 10 tầng, cao 66 m theo phong cách Art Nouveau màu nâu sậm. Mặt tiền bằng đá granit, hoa cương gắn phù điêu, cùng các tác phẩm điêu khắc là nơi luôn hấp dẫn du khách. Tôi liên tưởng toà thị chính Paris với diện tích 30.000km2, dài 110m, rộng 85m mà chúng tôi thường ghé qua mỗi khi đến Nhà Thờ Đức Bà vì hai nơi gần nhau. Có thể cho đây là một lâu đài cũng không ngoa, mặt tiền là một Công trường mênh mông mà luôn có những hoạt động giải trí luôn thu hút công chúng.
Tôi để ý ở các quốc gia châu Âu, toà thị chính (Hôtel-de-Ville) là cơ quan hành chinh (công sở) đáng lẽ xây theo kiểu phải khô khan chán ngắt nhưng trái lại các toà thị chính đều là một tác phẩm tráng lệ tinh tế xinh đẹp.
Saigon có toà đô chánh, nhờ kiến trúc sư Pháp xây cất pha trộn kiểu Baroque, Rococo, Art Nouveau rất duyên dáng thanh lịch, là niềm tự hào của người Saigon.
Chúng tôi còn ghé qua các con đường dành cho khách bộ hành dạo chơi dọc theo bờ biển cạnh trung tâm thành phố, nơi có bến neo các du thuyền to lẫn nhỏ đậu lại chờ đón khách. Ở đó tình cờ tôi nhìn thấy:
–Trung Tâm Nobel Hoà Bình (Centre Nobel de la Paix). Tôi hơi ngạc nhiên, bởi giải Nobel xuất phát từ quốc gia Thuỵ Điển, nhưng sao lại có 1 toà nhà xây kiểu cổ rất duyên dáng với các lỗ thông gió, vòm cửa cánh cung mềm mại, vừa cổ kính vừa sang trọng, mặt tiền khắc hàng chữ Nobel Peace Center ở đây nhỉ.
Thì ra giải Nobel Hoà Bình được phân chia cho Uỷ ban Nobel Na Uy trao tại Oslo (thực hiện theo di chúc của ông Nobel). Còn các giải lý, hoá, y, văn, sinh, kinh tế thì trao ở các Viện Hàn Lâm Khoa Học Hoàng gia Stockholm, Viện Karolinska, Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển. Chiếc huy chương nặng 150 gram bằng vàng 18 carat, mặt trước chạm hình ông Alfred Nobel, mặt sau huy chương về vật lý và hoá học có hình phụ nữ ngực trần.
–Công viên Tượng khoả thân Vigeland:
Là một nơi không nên bỏ qua khi đến Na Uy.
Công viên được đặt theo tên “cha đẻ” của 212 bức tượng (trong số khoảng 1.600 tác phẩm điêu khắc và 12.000 bản vẽ) rải rác trong công viên rộng lớn: Gustav Vigeland, điêu khắc gia người Na Uy (1869-1943).
Từ lối vào chính, có hai hàng 58 tượng dọc theo lối đi, mỗi bên 29 bức các tượng khoả thân bằng đồng hoặc đá granit : nam, nữ, thiếu niên, trẻ sơ sinh với các tư thế tả sinh hoạt đời thường từ lúc nằm nôi cho đến già (kiếp nhân sinh). Chẳng hạn cậu trai nhỏ đặt em bé trên đầu, người cha chơi đùa nhấc con trai xoay vòng trên không, phụ nữ trẻ bế con thơ, người đàn ông vừa chạy vừa ôm người đàn bà trong cánh tay, thiếu nữ khiêu vũ, mẹ âu yếm con gái, ông lão dắt cháu đi dạo.v..v..nổi tiếng có tượng Bánh Xe Của Sự Sống, Thạch Trụ (Monolith), nhất là Cậu Bé Nổi Giận.
Bức tượng cậu bé trong tư thế dậm chân trái, chân phải giơ lên, hai cánh tay cung lại hai bàn tay nắm chặt, nếp nhăn cau có giữa hai lông mày, miệng há to la khóc rất buồn cười dễ thương. Du khách thích vuốt ve bàn tay trái nắm chặt và bàn chân phải co lên của cậu đến nỗi màu đồng sáng bóng hơn các phần thân thể khác.
B/-Vestfold
Câu cá nục: Tôi đã trải qua kỳ nghỉ thú vị ở hạt Vestfold cách Oslo khoảng 170 km.
Tham dự việc bắt cá nục (maquereau) vô cùng ngoạn mục khó tin nếu không chứng kiến tận mắt. Biển Na Uy nhiều hải sản sinh sống, phẩm chất, hương vị ngon tuyệt không thua của Gia Nã Đại như cua hoàng đế, cá hồi, cá nục, cá thu, tôm, nghêu, sò
Các bạn Việt định cư ở vùng ấy từ nhiều năm rủ ra biển pic nic nướng cá nục ăn tại chỗ. Chỉ mang theo mấy vĩ than đá, bánh mì, salad, nước uống, vài món ăn khai vị cùng với cần câu.
Họ biết rành vị trí bờ biển, có chiếc cầu nho nhỏ bắc de ra xa chừng 10 m, phái nam mỗi người 1 cần với sợi dây khá dài, trên mỗi đoạn dây cách nhau vài tấc gắn một chùm 5,6 lưỡi câu; vị chi mỗi cần câu có chừng 20 lưỡi. Họ lấy thế ném sợi dây ra xa như có thể rồi ung dung trò chuyện. Tôi tưởng họ quên mắc mồi nên nhắc thì họ trả lời là câu cá không cần mồi. Bán tín bán nghi nghĩ thầm không có mồi sao dụ dỗ cá được, để chờ xem sao.
Đợi chỉ độ 2 phút, sợi dây bị kéo căng ra, bạn giật mạnh cần thì ơ kìa có vài con cá tòn ten trên sợi dây, uốn éo vùng vẫy trong tuyệt vọng. Ô là la ! Lần đầu tiên tôi thấy câu cá không cần mồi, cũng lần đầu tôi thấy chỉ 1 sợi dây mà bắt được 4,5 con cá cùng lúc. Chúng tôi cứ tròn mắt miệng ô a ngạc nhiên đầy thích thú.
Chừng hơn 1 tiếng hai người bạn đã câu chừng trăm con đựng đầy hai thùng, mỗi con mập tròn dễ nặng từ 600gr đến 800gr dài 40 cm lưng óng ánh màu xanh bạc kim loại, có sọc sẫm, phần dưới bụng trắng bạc.
Đợi nhóm lửa vĩ than đá cháy đỏ cho cá nướng lên ăn ngay tại chỗ. Thịt cá tươi ngon ngọt, nếu bình thường tôi chỉ ăn được 1/3, nhưng hôm ấy tôi “quất” hết nguyên con, cuộn với salad ít bột gia vị và khoanh bánh mì. Đó là một trong các buổi pic nic đáng ghi nhớ trong đời.
Ở đây tôi còn được sống với những đêm-hạ-trắng. 11 giờ đêm trời vẫn còn thấy mờ mặt người và cảnh vật. Tôi không biết mấy giờ đã sáng, bởi ngủ say. Nhưng lúc 4 g mở mắt ra đã thấy ánh bình minh rực rỡ rọi xuyên qua cửa sổ*
*Chỗ tôi mùa hè đến 10 g thì trời tối.
C/- Verdens Ende- Tjome
Verdens Ende tiếng Na Uy có nghĩa Tận Cùng Thế Giới (The World’s End).
Tên được đặt do các du khách mùa hè vào đầu thế kỷ XX.
Từ Vestfold chúng tôi lái xe khoảng 30 km đến mũi phía nam đảo Tjome, mệnh danh là Nơi Tận Thế. Nơi ấy gồm có các vách đá được hình thành từ băng sơn 10 ngàn năm trước. Một dãy đồi đá bằng phẳng nối liền biển, liền kề với mực nước, chúng tôi lần ra gần bìa như có thể, ngắm mặt biển mênh mông lăn tăn đợt sóng nhỏ. Thấy cả rong rêu xanh dưới đáy. Xa xa tháp hải đăng được mắc trên túp lều xây toàn bằng đá kiên cố với mũi nhọn cao chừng 2 mét.
Vùng đá bằng phẳng diện tích 0,25 km2, mọi người có thể leo lên nằm, ngồi nghỉ ngơi, pic nic, chơi đùa như trên đất liền. Giữa những tảng đá có những khe lạch xâm xấp nước biển, nơi chúng tôi bắt chước mọi người tìm nhặt vô số sò hay nghêu tròn nhỏ tí tẹo bằng móng tay cái. Bạn mang về nhà, hôm sau luộc chín mời mọi người ăn. Rất ngon ngọt, nhưng chúng tôi chỉ ăn thử vài con cho biết chứ không đủ nhẫn nại dùng tăm hay kim nhọn rút thịt khỏi vỏ.
Hôm ấy là một ngày cuối tháng sáu rất mát mẻ, nắng chan hoà. Bầu trời bao la trong xanh như màu đại dương ngút mắt. Sao thấy con người nhỏ nhoi yếu hèn so với thiên nhiên vũ trụ quá !!
Tôi nằm dài ra trên nền đá ngó lên trời cao rồi tự hỏi có thiên đường trên mấy tầng trời không nhỉ. Những người thân yêu đã rời xa cõi trần gian nhộn nhạo này có tụ hội ở đó? Đang lâng lâng hưởng không khí tinh khiết thanh tịnh, bỗng một cánh chim (hải âu?) đơn độc bay ngang tầm mắt, lôi ngược tôi trở về thực tại.
Tức cảnh sinh tình, tôi sáng tác một bài thơ tả tâm trạng mình lúc nằm trên tảng đá:
Lên Non Nằm Ngắm Trời Xanh
(Đi Chơi The End Of The Earth-Norway)
Bỏ sau lưng lắm sự đời
Lên nằm núi đá ngó trời thênh thang
Má đào đón gió mơn man
Biển xô sóng gợn lăn tăn rì rào
Xếp tay làm gối tựa đầu
Nhắn mây trôi giạt phương nào ghé ngang
Tầng không cánh nhạn lẻ đàn
Thoát vòng cương toả nhịp nhàng xoải bay
Cởi giày cho nhẹ gót hài
Khẽ nương vào mộng bồng lai chiều tà
Thiên đường một giấc Nam Kha
Giật mình, quạnh vắng. Chỉ ta đối mình !
Thanh Hà
LCDF, 20/05/2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét