Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

Nữ Thần Tự Do–Bảo Tàng Metropolitan New York

Tùy bút của Thanh Hà


Viện Bảo Tàng Di Dân (Nhập Cư)
Đảo Ellis nằm giữa New York và New Jersey City.

Từ Philadelphia (Phila) có hai ngã đi đến đảo Ellis và tượng Nữ Thần Tự Do (cách đảo Ellis 1 km):
    a) Ngã Phila–New York: khoảng 190 km.
    b) Ngã Phila–New Jersey: khoảng 150 km.
Cô bạn không dám lái xe đi xa nên nhờ hai vợ chồng người Việt mà cô quen. Chồng đã nghỉ hưu, kiếm thêm phụ thu bằng cách giúp khai thuế, chuyên chở khách trong cộng đồng đi đây đó nếu ai có nhu cầu..v..v..

Anh chọn đi ngã New Jersey đến đảo Ellis gần hơn ngã New York 40 km. Khởi hành lúc 6 g, buổi sáng xe ít không bị kẹt, tưởng 7:30’ sẽ đến, nhưng sắp đến đường hầm Holland Tunnel (khi xưa gọi là Hudson River) nối liền phía đông Manhattan Hạ New York với phía tây New Jersey thì xe dồn đống bắt đầu nhích chậm như đi bộ. 

Đường hầm được xây ngầm dưới sông Hudson từ năm 1920, hoàn thành năm 1927. Nằm sâu dưới mặt nước 28m, chiều dài khoảng 5,1 km. Khi đọc bảng chỉ đường Holland Tunnel tôi-vốn tò mò- thắc mắc sao lại tên Holland (có nghĩa quốc gia Hoà Lan) cho 1 địa danh ở Mỹ. Về nhà “nghiên cứu” biết rằng do kỹ sư xây dựng tên Clifford M.Holland khởi đầu đến tháng 10 năm 1924 ông qua đời sau khi mỗ amidal (amygdales) ở cổ. Người kế là ông Milton H.Freeman chưa đầy năm cũng nối gót theo ông Holland. Cuối cùng ông Ole Singstad tiếp tục đến năm 1927 là hoàn thành*

*Tôi đoán ông Singstad từ khi nhận trách nhiệm cho đến lúc xây xong đường hầm hẳn hồi hộp lo sợ lắm, không biết hai vị tiền nhiệm có lôi mình sang thế giới bên kia làm bầu bạn cho vui không!!🤪🤭

Chính phủ lấy tên ông Holland đặt cho đường ngầm chứ không dính dáng gì đến xứ Holland có bốn điều nổi danh là: danh hoạ Vincent Van Gogh, hoa uất kim hương (tulip), cối xay gió và 26%đất đai thấp dưới mực nước biển (khoảng 7m) hết. Chỉ là trùng hợp thôi. 
À mà cũng ngộ nghe, vì Hoà Lan (Holland) là 1 miền của Netherlands, tiếng Pháp:  Pays-Bas (Pays= quốc gia, Bas=dưới thấp), trùng hợp với việc ông Holland xây đường hầm nằm dưới lòng sông Hudson.

Qua khỏi đường hầm chỉ 5,1km mà mất hơn 30’-40’, ai nấy thở ra nhẹ nhỏm chạy tiếp đến địa điểm bán vé tàu sang đảo Ellis. Theo bảng hướng dẫn vào parking, tưởng chỗ bán vé gần đó nhưng chưa. Chạy vòng vòng hai ba cây số chẳng thấy đâu hết, ngỡ nhầm chỗ bèn chạy trở ra cổng định tìm nơi khác. Bỏ thẻ vào máy bấm nút mà thanh chắn (barie) không chịu mở. Thử vài lần nó vẫn nín thinh không buồn nhúc nhích, anh Vinh bấm nút Help, sột soạt vài giây rồi tiếng 1 phụ nữ trả lời, anh giải thích, người ta mới mở cổng cho xe ra. Chạy tiếp hồi lâu vẫn không biết nơi nào bèn ghé vào văn phòng information, họ chỉ trở lại đúng parking vừa vào lúc nảy. Lại chạy trở vô lần thứ nhì. Đúng là:
Vân Tiên cõng mẹ chạy ra
Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô
Vân Tiên cõng mẹ chạy vô
Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra
    (Trò chơi Vân Tiên cõng Mẹ)

Loay hoay mất hơn nửa tiếng. Chỉ vài chiếc xe lác đác đậu rất xa chỗ chúng tôi, đi bộ ít nhất 500 thước mới tới chỗ bán vé lên tàu. Chị Thoa vợ của anh Vinh bị đau hai khớp đầu gối không đi nhanh được. Chúng tôi thấy chiếc cầu dẫn xuống tàu, khởi hành lúc 9g hỏi người soát xem mua vé ở đâu, họ chỉ phòng bán vé cách đó 300 hay 400 m. Đồng hồ chỉ 8:45’, anh Vinh nhanh trí kêu chúng tôi đứng đợi để một mình anh chạy mua cho kịp. Lần nầy anh chạy trên chính đôi chân của mình–chứ không phải bốn cái bánh xe hơi trợ giúp !!

Khi anh chạy trở lại thì vừa kịp giờ cho hành khách lên tàu. Hú hồn. Nếu lỡ chuyến này thì phải chờ 1 giờ hay hơn mới có chuyến kế (tôi quên mất). Mà thời gian không có nhiều, vì sau đó tôi còn đi viện Bảo Tàng Metropolitan nữa.

Lúc đậu xe trong parking, chỉ rải rác dăm chiếc nên ngỡ ít người đi, khi sắp hàng xuống tàu mới thấy cả hằng trăm người. Vé cho mỗi người là 25.30$USD.

Bầu trời hôm ấy cùng một màu với đại dương, tro xám. Lẫn màn sương mỏng la đà phủ quanh ngọn các khối building mọc tua tủa trên Manhattam (?)đối diện. 
Tôi đoán đó là Manhattam*(Mã Nhật Tân) dựa vào những gì tôi thường đọc, tả về thành phố New York. Vì hể nhắc đến Nữu Ước– tên phiên âm Việt–người ta liên tưởng ngay đến đảo nầy, diện tích chỉ 59 km, dài 21,7 km ngang 3,7 km mà có đến 1,628 triệu dân cư. Nơi có sân khấu Broadway trứ danh, Công  trường Thời Đại, và nhà chọc trời Empire State cao 443 m tính cả antenne. Toà nhà nầy được quay trong phim King Kong đầu tiên năm 1933 chú khỉ khổng lồ leo trèo tận đỉnh tháp lúc bị đuổi bắt.

Còn non 900 m đến đảo Tự Do (Liberty Island), tàu ghé qua đảo Ellis cho hành khách nào muốn viếng viện bảo tàng Người Nhập Cư, nội nơi đây từ năm 1892 đến 1954 đón khoảng 12 triệu di dân châu Âu và một số ít từ quốc gia Ả Rập. 

Nữ di dân đầu tiên tên Annie Moore, 15 tuổi người địa hạt Cork, Ái Nhĩ Lan để gặp cha mẹ và hai anh đã đến Nữu Ước 4 năm trước. Cô bé được các quan chức chào đón tặng một đồng tiền bằng vàng 10 đô la. Người đến đảo cuối cùng là một thương gia người Na Uy tên Arne Petersson.
Theo đạo luật áp dụng từ năm 1924, chỉ những người bị trục xuất khỏi quốc gia của họ, những nạn nhân chiến tranh mới được chấp nhận.

Trước đây có một cây cầu bắc từ đảo Ellis đến công viên tượng Nữ Thần Tự Do từ tiểu bang New Jersey. Nhưng nay đã đóng với công chúng, bởi thành phố Nữu Ước phản đối. 
Lúc chúng tôi đến- ngày 10/12/2024- mặt tiền bảo tàng đang giai đoạn sửa chữa, nhưng vẫn mở cửa vào tự do. Đầu tiên chúng ta sẽ gặp sảnh đường rộng mênh mông với trần nhà cao hình vòng cung thoáng đãng. Hai lá cờ Hiệp Chủng Quốc khổ lớn mắc nghiêng nghiêng từ hành lang hai bên lầu một thòng xuống. Tôi và cô bạn thay phiên đứng phía dưới giữa hai lá cờ chụp ảnh, mường tượng hơn trăm năm trước các người khốn khổ đủ mọi thành phần gốc gác đã đặt chân đến nơi nầy, thực hiện Giấc Mơ Mỹ- The American Dream-.

Rồi liên tưởng đến trại Pendleton vốn là căn cứ Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, 50 năm trước được trưng dụng thành nơi tạm trú cho người Việt tỵ nạn để sau đó phân tán về nơi định cư khác. Nên chăng ngày nào đó người ta cũng dựng một tượng đài thuyền nhân Việt Nam ngay cửa biển San Diego, và thành lập bảo tàng viện di dân 3 nước Đông Dương(Việt, Cam Bốt, Lào) biến thành nơi hành hương cho du khách lẫn đời con cháu của người tị nạn tìm hiểu về nguồn cội– tương tự như đảo Ellis ?

Họ dành góc sảnh đường trưng bày các rương hòm lớn bằng cây của di dân, tôi đếm có khoảng 7 cái rương kích cỡ, kiểu khác nhau. Tầng trên có các phòng chiếu phim tài liệu, phòng chưng các tờ tiền giấy bạc lẫn đồng xu của người nhập cư, máy đổi sang tiền Mỹ, phòng treo áp phích giá tiền món ăn, thức uống, có cả máy nhận tiền xu…
Những di dân khi đến Mỹ, phải trải qua những cuộc điều tra lẫn khám xét sức khoẻ thể chất lẫn tinh thần (thần kinh?).
Người xin nhập cư phải trả lời 29 câu hỏi. Nếu có dấu hiệu bệnh nặng sẽ bị cách ly 40 ngày. Đa số sẽ được chấp thuận ngay lập tức, chỉ mất khoảng 3–5 tiếng ở trên đảo, có 98% người được chấp thuận.
Có 2% bị từ chối, trả về điểm xuất phát. Nhiều lý do chẳng hạn bệnh hiếm, quá khứ tội phạm hay nguy cơ khó tìm được việc làm ở Mỹ.
Nên Ellis còn được mệnh danh Đảo Hy Vọng hay Nước Mắt, tuỳ theo số phận từng người.
Đối với  98% người được chấp thuận thì đây là Đảo Của Hy Vọng, Cánh Cửa Nụ Hôn Mỹ (Isle of Hope, The Kissing Post of America).
Còn 2% bị từ chối, thì gọi đó là Đảo Của Nước Mắt (Isle of Tears), Đảo Trái Tim Tan Vỡ (Heartbreak Island). Thoạt nghe tỷ số 2% ít ỏi tưởng rằng không đáng kể, nhưng tính trung bình mỗi tháng lên đến hơn 1 ngàn người bị từ chối; nhân lên một năm, nhiều năm thì số người bị từ chối không phải nhỏ.

Tượng Nữ Thần Tự Do

Rời viện bảo tàng Di Dân, chúng tôi chờ lên chuyến tàu khác chạy tiếp đến đảo Liberty để ngắm nhìn một bức tượng biểu trưng cho khát vọng Tự Do nhân loại: Nữ Thần Tự Do, nổi tiếng nhất Hoa Kỳ mà tôi đã từng đọc và nghe nhắc không biết bao nhiêu lần.

Được dựng trên đảo Liberty phía nam Manhattan vào năm 1886(139 năm) tại cửa ngõ sông Hudson cách đảo Ellis 900m, tượng nữ thần điêu khắc theo hình mẫu La Mã, khoác áo choàng, tay phải nâng cao ngọn đuốc, tay trái ôm phiến đá khắc ngày độc lập của Hoa Kỳ.
Tượng do kiến trúc sư người Pháp Frédéric. A.Bartholdi tạc, chiều cao đến ngọn đuốc 46 m, tính luôn bệ đặt tượng 93 m. Tượng bằng đồng, theo nắng gió mưa thời gian bị oxy hoá nay đổi sang màu xanh nhạt. Đây là món quà của đồng bào Pháp gửi tặng đồng bào Mỹ, một cách bày tỏ tình thân ái.

Tôi bước ra boong tàu ngắm nhìn tượng từ xa, lòng rộn lên niềm phấn chấn là có ngày chính mắt mình nhìn thấy tượng Nữ Thần, chớ không phải được “nghe” người khác kể. Hôm ấy trời u ám rất nhiều gió nhưng số người thăm viếng vẫn đông đúc. Người ta có thể theo cánh cửa chỗ bệ tượng vào trong cầu thang lên đến phần chiếc vương miện, nhưng lượng người hạn chế. Du khách phải đặt vé đợi có khi trước 1 năm. Mỗi giờ chỉ có 3 nhóm, mỗi nhóm 10 người tức mỗi ngày chỉ 240 người được phép đi lên và phải qua kiểm tra an ninh 2 lần nghiêm ngặt.

Đến nơi, tôi hoà theo đám đông ngẩng mặt lên cao để nhìn vị nữ thần oai nghi vươn cao ngọn đuốc đứng chót vót thi gan cũng tuế nguyệt.

Ngoài bức tượng chính, có nhiều bản sao được trưng bày trên thế giới, trong đó phải nhắc đến bức tượng nhỏ chiều cao 11,50m đặt tại đảo Ile aux Cygnes (đảo Thiên Nga) tại Paris quay mặt về hướng Tây để nhìn người chị lớn của mình, tức tượng New York. Được biết tượng nhỏ này do Cộng Đồng người Mỹ sinh sống tại Paris tặng cho thành phố Paris.
Đây là đảo nhân tạo dài 890m, ngang chỉ 11m gần với tháp Eiffel,là biểu tượng của nước Pháp cũng trứ danh ngang ngửa với tượng Tự Do Nữu Ước.
Mỗi lần đến Paris, tôi hay cùng cô cháu gái đi dạo dọc bờ sông Seine ngang qua tượng nữ thần Tự Do “em nhỏ” nầy, thầm ước ao một ngày sẽ được ngắm “chị lớn” thì điều ước nay đã thành hiện thực. Vui!!!

Suy cho cùng, cả hai di sản tượng Tự Do Hoa Kỳ và tháp Eiffel đều do kiến trúc sư và điêu khắc gia người Pháp sáng tạo. Phải công nhận châu Âu bị gọi là lục-địa-già nhưng sản sinh biết bao nhiêu nhân tài về mọi phương diện như khoa học, triết, nghệ thuật, văn chương, ca nhạc kịch…(mà tạo chiến tranh cũng lắm!!!).

Nếu Hoa Kỳ được thế giới nhớ đến với Bảng Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 4 tháng 7, năm 1776 trở thành kim chỉ nam về Nhân Quyền cho toàn thế giới noi gương thì Pháp cũng có phương châm khí khái không kém là: Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái (Liberté, Égalité, Fraternité) từ năm 1790 mà đến nay họ vẫn luôn tôn trọng dù trải qua bao đời Tổng Thống bất luận đảng phái nào.

Nhắc đến xứ Cờ-Hoa và xứ Phú-Lang-Sa mà không nhắc đến lịch sử nước Việt thì thật đáng chê trách vô cùng. 
A/-Có một bài thơ thể thất ngôn tứ tuyệt– có sử cho rằng do tướng Lý Thường Kiệt viết, có sử nói không rõ tác giả–xuất hiện từ thế kỷ thứ 10 tức hơn 1 ngàn năm trước được xem như bản Tuyên Ngôn Độc Lập Đầu Tiên của dân tộc Việt Nam, đó là:

Nam Quốc Sơn Hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Cụ Trần Trọng Kim dịch:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Sử chép bài thơ này ra đời từ thời vua Lê Đại Hành lúc chống quân xâm lược Tống năm 981, đến thời tướng quân Lý Thường Kiệt năm 1077 đánh bại quân Tống bài thơ được nhắc lại lần nữa. Có một dị bản khác:

Nam quốc sơn hà nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư

B/-Hai trăm năm sau có Bình Ngô Đại Cáo do Nguyễn Trãi soạn thảo (1428) thay lời Bình Định Vương Lê Lợi chống trả nhà Minh, được xem như bản Tuyên Ngôn Độc Lập Thứ Nhì, khẳng định quyền độc lập và tự chủ của nước Đại Việt (Việt Nam).

Viện Bảo Tàng Metropolitan (The MET)

Rời đảo, chúng tôi đi vào thành phố Nữu Ước, ngang qua Central
Park để đến Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Metropolitan gọi tắt The MET, nằm trên đại lộ Thứ 5, số 1000 (5th Ave, NY).

Đây là viện bảo tàng nghệ thuật lớn nhất của Mỹ, chứa hơn hai triệu tác phẩm nghệ thuật cổ điển lẫn đương đại như Ai Cập, hội hoạ, điêu khắc của các danh hoạ châu Âu, Hoa Kỳ, châu Phi , châu Á, Byzantine, Hồi Giáo…
Ngoài ra còn trưng bày các nhạc cụ, trang phục, vũ khí cổ của thế giới.
Tôi không có dịp so sánh viện bảo tàng The MET với viện bảo tàng điện Louvre -Pháp, xem viện nào nổi trội hơn, chứa nhiều tác phẩm quí báu hơn. Bởi khi anh Vinh thả chúng tôi trước viện, kêu đúng đợi để anh tìm parking đậu xe, đồng hồ đã 3:30’ chiều. Mà 5 g đóng cửa, mọi người phải rời khỏi lúc 4:45’.

Ba phụ nữ đứng chờ. Trời mưa lất phất đủ ướt tóc tai mặt mũi, quần áo; may là khách được vào bên trong sảnh đường trong lúc chờ mua vé.(Chả bù với bảo tàng Louvre-Paris phải đứng sắp hàng ngoài sân ít nhất 2:30’ mới mua được vé vì không đặt sẵn trên internet. Lần gặp mưa, che dù nhưng vẫn ướt mèm như con mèo ướt). Tôi lợi dụng chiêm ngắm bức tượng ngồi của một Pharaon Ai Cập thời 1919-1878 trước Công Nguyên.
Chờ 30’. Bóng dáng “ông tài xế” không thấy đâu. Đã 4:05’ g. Chị vợ Thoa gọi điện thì anh nói kẹt xe mới chạy đến số một ngàn mấy mà parking phải số hơn hai ngàn mấy.
Vợ anh kêu quay đầu xe lại đón chúng tôi, vì chỉ có 40’ mà anh còn “lang thang trên đường”, chờ anh đậu được xe rồi đi bộ đến thì chắc 6g hơn.

Thất vọng quá. Tôi đã vào bên trong viện rồi mà để lỡ vì thiếu thời gian. Thôi đành hẹn dịp tới sẽ dành ra ít nhất nguyên 1 ngày để xem cho mãn nhãn. Nên tôi không thể phán xét Metropolitan với Louvre* được. Mà tôi đoán ngang ngửa nhau về diện tích và những kiệt tác tranh, tượng nghệ thuật vô giá của thế giới, mỗi lần đến Paris tôi đều dành 1 ngày đi thăm viếng.

*Paris ngoài viện bảo tàng Louvre còn một viện khác nhỏ hơn là Orsay toạ lạc bên bờ sông Seine (như Louvre) tôi cũng yêu thích không kém, nơi chứa rất nhiều bức tranh, tượng của các danh hoạ thế giới, nhất là trường phái ấn tượng.

Nữu Ước còn nhiều điều thú vị để xem như sân khấu kịch Broadway, Công Trường Thời Đại, Central Park, cầu Brooklyn, nhà chọc trời, khu phố SoHo thời trang sành điệu…còn nhiều nữa. Nếu muốn đi hết thì tôi phải đóng đô ở đó ít nhất 1 tuần trở lên. Thôi hẹn dịp khác.

Thanh Hà
05/2025



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét