MỘT MẢNG ĐỜI THƠ ẤU
Tản mạn của Thanh Hà
1/-
Tự dưng sau khi nhìn lại tấm ảnh chụp cách nay hơn 40 năm cùng với các bạn ở trường TH Kiên Thành, hồn tôi cứ vơ vẩn quay về những ngày xa xăm cũ. Bao kỷ niệm nằm ngủ im trong vùng ký ức bỗng choàng tỉnh dậy, rõ từng nét . Cảm xúc lẫn lộn giữa niềm vui và tiếc nuối, ước chi được sống lại thời thơ dại ấy.
Tôi nhìn thấy tôi là một bé con khoảng 8, 9 tuổi, tóc uốn quăn. Hể tan trường về nhà ăn cơm xong là bỏ dép chạy chân đất vòng vòng quanh sân trước sân sau,hai bên chái hè, (cả qua nhà bà dì em bà ngoại ở kế cận) để khi thì leo tót lên ngọn cây me, cây lý, ổi, xoài… tìm hái trái hoặc chỉ ngồi chơi như con khỉ ở chặng ba của cây ngó nhìn thiên hạ thỉnh thoảng đi ngang nhà, thấy mình giỏi giang cao lớn hẳn.
Tôi nhìn thấy tôi cầm nhánh cây rình đuổi bắt bươm bướm đủ sắc màu bay vờn quanh mấy bụi bông trang, bông mai, bông móng tay; tìm hút mật bông nhành nhành, bông huệ trắng... Vừa lẩm nhẩm hát:
Kìa con bướm vàng
Kìa con bướm vàng
Xoè đôi cánh, xoè đôi cánh
Bươm bướm bay đôi ba vòng
Bươm bướm bay đôi ba vòng
Bên hàng hoa
Bên hàng hoa
Thỉnh thoảng đánh trúng bươm bướm rơi xuống đất, tôi bắt đem ép vào quyển vở, (cho giống mấy thiếu nữ mơ mộng mà chị tôi hay kể giữa bạn bè với nhau, hoặc nghe tuồng cải lương trong radio).
Ép được chục con, mấy ngày sau mở ra xem thấy thân hình nó giẹp lép, lòi ruột ghê gớm,phấn ở cánh lem luốc, xác xơ. Nghĩ mình sao ác độc chắc sau chết sẽ bị đày xuống âm ty nên từ đó không còn dám nghĩ chuyện ép bướm vào vở nữa. Nhưng cái trò đuổi bươm bướm chạy quanh sân thì vẫn còn, thêm vài năm nữa mới ngưng.
Tôi nhìn thấy tôi lặng ngắm mấy bông mười giờ buổi sáng hãy còn nở rực màu đỏ sen tròn cánh, chưa qua buổi trưa đã co cụm héo rũ. Bần thần xót thương sao đời hoa ngắn ngủi mau tàn.
Héo trước trăm hoa, hoa bạc mệnh
Đang xuân để khỏi thấy xuân tàn
Chúa xuân ví biết tình hoa thế
Xin kiếp sau đừng nở thế gian
(Hoa Bạc Mệnh, J. Leiba )
Mở ngoặc : tuy còn con nít, nhưng thật sự là tôi đã biết “thương mây khóc gió” rồi đó. Có điều bài thơ nầy chỉ khi tôi lớn thêm chút nữa, tôi mới được đọc thôi.
Tôi nhìn thấy tôi sau bữa cơm chiều , má hay dẫn mấy chị em băng qua con lộ là đến cánh đồng cỏ để chúng tôi tha hồ chạy nhảy chơi đùa và hít thở không khí thiên nhiên tinh khiết. Chúng tôi tìm nhặt cỏ gà—là loại cỏ dại giống hình đầu gà—, đặt cho hai đầu cỏ đan nhau rồi giật mạnh xem ai giật đứt đầu cỏ của đứa kia thì thắng.
Chúng tôi cắc cớ lùa tay vào từng nhánh cây mắc cở (mà nhạc sĩ Trần Thiện Thanh gọi là hoa trinh nữ) để nhìn chúng e thẹn xếp lá và hoa lẫn trốn.
Hồi nhỏ tôi vốn đã ít nói (vì sợ người lạ), nhưng khá năng động, lí lắc, nghịch ngợm không thua ai, thích chơi đủ các trò chơi ngoài trời như nhảy dây, nhảy cò cò, trốn tìm, chơi bán hàng, nuôi cá thia thia, đá cầu (bằng lá gòn cột chùm lại), tắm sông, bắn bi, chơi cờ nhào, domino…nhất là đi phá phách mấy cây cối, hoa cỏ, là hung thần của đàn bướm…
Có lần chạy xe đạp đầm nhỏ ba má mua cho mấy chị em, tôi vừa chạy vừa tỏ ra ta đây giỏi, cứ ngoái lại đằng sau (chả biết nhìn gì nữ ), nên tông vào đầu chiếc xe lambretta đang đậu ngoài đường của bác hai hàng xóm cái rầm té nhào. Anh trai con bác lớn hơn tôi vài ba tuổi, đang chơi hay làm gì ngoài sân với vài đứa bạn, nhìn thấy bèn hù tôi:
—Chết rồi, con T.H đụng vô xe nhà tao bị móp rồi, tao mét cô dượng (tức là ba má tôi) bắt đền cho mầy chết.
Thời đó, bất luận con trai nói với con gái hể ai nhỏ hơn là cứ mầy tao mà kêu.
Thật là đồ…bất lịch sự, đồ…hổng biết galant gì cả.
Hăm bị mét, tôi sợ hết hồn vía. Chẳng nói chẳng rằng leo lên xe phóng nhanh về nhà, cũng chỉ cách có ba căn thôi. Cứ hồi hộp chờ “nó” lại mắng vốn, nhưng mà họ chỉ chọc chơi thôi chớ không có mét, báo hại mấy ngày tôi ăn ngủ chẳng yên.
2/-
Phía trước nhà tôi là con đường liên tỉnh nối liền Rạch Giá- Sài Gòn, phía sau là giòng sông phù sa hiền hoà, là nguồn nước cung cấp cho các gia đình dọc hai bên bờ sông chạy dài …không biết đến đâu nữa (!) vào mùa nắng hạn. Chắc là đến tận Saigon. Hồi nhỏ tôi chỉ biết đến Saigon thôi. Còn Huế thì quá xa, mà Hà Nội thì càng xa quá sức, tưởng như một vùng đất lạ lẩm nguy hiểm nào đó sẽ không bao giờ đặt chân tới.
Miền nam chỉ có hai mùa mưa nắng.
Mùa mưa đến, mọi người hứng nước mưa để uống, nấu thức ăn, tắm rửa giặt giủ. Thời ấy, môi trường không bị ô nhiễm bởi mọi thứ độc hại : khói xăng dầu, bụi bặm, hoá chất, con người cũng không sống chen chúc chật chội tranh giành diện tích với thiên nhiên, cây cối nên không khí rất trong lành dễ chịu. Nước mưa tinh khiết, nhà quê nào cũng sắm rất nhiều lu thật to để hứng dùng trong sinh hoạt, ăn uống…
Lu làm bằng sành nên giữ hơi mát. Giữa trưa trời nắng nóng, ai đi đâu từ ngoài trở về, chỉ cần một ca nước mưa giải khát , nước từ cổ chạy dần xuống cuống họng rồi đi xuống xa hơn… vào tới đâu là cảm thấy mát lạnh ngọt lịm đến đấy...
Ực !!!!
Đến mùa khô thì tất cả mọi sinh hoạt đều dùng nước sông, múc đổ vào lu, lóng phèn cho trong để nấu ăn, uống. Còn giặt quần áo, kể cả phóng uế đều tuồn hết xuống sông vô tội vạ, nghĩ rằng nước luân lưu theo thuỷ triều lên xuống mỗi ngày sẽ hoà tan mọi dơ bẩn chảy hết ra biển. Suy nghĩ đơn giản, dễ dàng. Ấy vậy mà hình như ai cũng chấp nhận, chả ai thắc mắc hay đặt câu hỏi gì về vệ sinh hết. Giờ nghĩ lại thấy ghê thật !
Thế mà , thời niên thiếu của chúng tôi, rất ít khi nghe nói có người chết vì ung thư hay nhiễm độc hay tai nạn xe cộ, tàu xuồng— nếu như trí nhớ tôi không kém thì lúc nhỏ tôi hầu như không thấy ai ở xóm tôi chết vì bịnh cả—. Rất hiếm mới có vài người cao niên qua đời, mà với 1 đứa con nít 7,8 tuổi là tôi thì họ đã già quá rồi mặc dù lúc ấy có thể họ chỉ mới ngoài 50, 60 chi đó.
Mở ngoặc : Thế thì bây giờ trong mắt của những trẻ con, chúng cũng xem tôi như là một lão bà, cụ bà rồi nhỉ !!!
Có lần tôi tình cờ đọc được một tờ báo xuất bản ở Vn, họ kể về một người mới 50 tuổi, mà ký giả gọi họ một cách kính cẩn là lão bà, cụ bà. Chị bạn tôi lúc ấy trên 60, chị cười ngặt ngoẽo, nói là thế thì chị đã lên hàng đại-lão-bà rồi đấy.
3/-
Từ Ngã Ba Rạch Sỏi về đến nhà tôi độ chừng 800m, phải đi ngang qua khoảng chục nóc gia người gốc Campuchia. Họ rất hiền lành hoà thuận đúng câu “ tình làng nghĩa xóm” với dân bản xứ.
Chính tôi có chị bạn tên Thị Kim Lên ( tên nhà là Chuột ) học chung thời tiểu học, tuy cùng lớp nhưng chị lớn hơn tôi ít nhất 3 hay 4 tuổi, ba chị làm cảnh sát nên cho chị đi học để biết chữ. Trọ nhà người bà con ở xóm ấy để tiện việc đến trường, vì nhà chị ở trong sóc nào đó mà vì còn nhỏ nên tôi quá vô tư không hỏi , mà nếu có hỏi cũng đâu biết là đâu.
Chị rất thương tôi, luôn bênh vực khi có bạn khác ăn hiếp. Mỗi ngày đi học, tôi thường ghé qua rủ chị đi cùng. Nhưng tựu trường năm lớp nhứt (tức là lớp năm) thì không thấy chị đi học nữa khiến tôi lẽ loi , buồn nhớ chị nhiều.
Bẵng đi chừng hơn một năm, một hôm chị ghé thăm tôi, có dẫn theo 2 đứa em gái, nhân dịp ra Rạch Sỏi thăm bà con. Dưới con mắt của một đứa bé là tôi thì trông chị ra vẻ thiếu nữ hẳn lên rồi. Tóc chị dài thêm, cột đuôi ngựa, cao hơn tôi cả nửa cái đầu, nhất là ở chỗ ngực đã u lên hai cục bự bằng trái quít (!) khiến tôi cứ tò mò nhìn lén. Nghĩ thầm: Trời ,sao chị nầy mới hơn một năm không gặp mà giờ đã đổi khác quá nhanh vậy, đâu còn chút gì là chị Chuột gần gủi ngày xưa của mình nữa đâu.
Chị giải thích là ba chị nói học nhiêu đủ rồi, là chị cả nên phải ở nhà để lo giúp gia đình.
Sau lần đó đến giờ đã nửa thế kỷ trôi qua, tôi không bao giờ gặp lại chị lần nào. Chị Kim Lên ơi, giờ chị ở phương trời nao? Chắc đã cháu đàn cháu đống rồi. Sao chị không đến tìm em, vì chị biết nơi gia đình em ở mà.
Tôi có đọc đâu đó, câu người Việt hải ngoại hay nói :”chúng ta đi mang theo quê hương “ để ám chỉ việc sân nhà họ trồng trọt vườn rau, cây ăn trái tiêu biểu cho món ăn thuần Việt nơi xứ người.
Thì người Cam-Bốt cũng vậy, nơi nào họ sinh sống là có trồng cây thốt nốt, cây me keo, cây ô môi…
Nên hiển nhiên có một cây thốt nốt được trồng bên vệ đường ở khu người Khmer cư ngụ , không biết từ khi nào, mà thân cây đã khá lớn phải hai vòng tay con nít mới ôm trọn, tàng lá xanh phủ rợp bóng mát . Đối diện với cây thốt nốt, bên kia đường là nhà của ông chú bảy Kinh ( ông tên Kinh, nhưng là người Khmer). Là một căn mái lợp lá dừa nước, như hầu hết các ngôi nhà thuở ấy, nằm hơi lùi vào trong, chung quanh trồng nhiều cây che khuất tầm nhìn từ ngoài. Ông nói tiếng Việt không rành, sống kín đáo, tiết kiệm có tiếng.
Mở ngoặc: Tôi hơi nhiều chuyện chút, người trong xóm kể lại rằng: sau năm 1975, có hai đợt đổi tiền thì mới phát giác ông bảy rất giàu chứ không như vẻ ngoài đạm bạc. Tiền giấu trong lu hủ, chỗ nầy chỗ kia. Mỗi người chỉ được quyền đổi một ít có giới hạn (không nhớ bao nhiêu, chắc vài chục hay vài trăm chi đó), nên tiền ông dành dụm bỗng biến thành giấy vụn. Ông khóc không thành tiếng, nhưng nhất định thà đem đốt mớ tiền hết giá trị kia chứ không chia cho hàng xóm để đổi phụ vì tiếc của do ông chắt mót . Nếu ông không được hưởng thì cũng đừng hòng ai khác được hưởng.
Hồi ấy xóm tôi vắng hoe, lâu lâu mới có người đi trên đường . Bọn trẻ bắt đầu lớp 1 cũng cuốc bộ đến trường chứ đâu có cảnh phụ huynh đưa đón dù lớn tồng ngồng sắp thi tú tài như ngày nay.
Mỗi khi chúng tôi đi về ngang cây thốt nốt, cũng là ngang nhà ông chú bảy Kinh,
bất kể sáng trưa chiều,luôn cảm thấy bất an vì cây cối khá rậm rạp âm u, sợ có …ma rình. Rón rén cố đi cho thật mau vượt qua đoạn đường ấy rồi mới vững tâm được. Nhất là khi trời mưa , chiều chạng vạng đi học về , tóc cứ dựng đứng, tưởng tượng nhỡ con ma núp trên tàng cây nhảy xuống hù nhát.
Đã vậy, trong cộng đồng hiền lành ấy có một ông thích uống rượu, say sưa cả ngày tên Tư Buôl. Khi say ông thường đi từ đầu làng đến cuối làng,mặc độc cái quần cộc ngả màu cháo lòng, chân nam đá chân chiêu, tay cầm chai rượu quơ quơ, miệng nói năng nhừa nhựa khiến bọn con nít sợ mất hồn vía, chạy núp vào kẹt cửa hay sau bồ lúa để trốn.
Nên ông bà cha mẹ thường doạ nếu đứa nào hư sẽ đem lại cho ông Tư Buôl bắt nhậu rượu. Ông ấy là nỗi kinh hoàng của đám trẻ chúng tôi. Mỗi lần đi học về mà lỡ thấy ông từ xa , là mặt mày xanh lét phải chạy ngược lại Ngã Ba nơi có đông người, chờ cho ông đi khuất mới dám về nhà.
Về sau , tôi không nhớ ông mất năm nào….chỉ nghe nói là bịnh gan.
Gia đình ông chú bảy Kinh không biết dời đi đâu.
Cây thốt nốt cũng cho đi hoá kiếp từ lâu rồi.
Còn tiếp kỳ 7, phần 2
Thanh Hà
Tản mạn của Thanh Hà
1/-
Thanh Hà |
Tôi nhìn thấy tôi là một bé con khoảng 8, 9 tuổi, tóc uốn quăn. Hể tan trường về nhà ăn cơm xong là bỏ dép chạy chân đất vòng vòng quanh sân trước sân sau,hai bên chái hè, (cả qua nhà bà dì em bà ngoại ở kế cận) để khi thì leo tót lên ngọn cây me, cây lý, ổi, xoài… tìm hái trái hoặc chỉ ngồi chơi như con khỉ ở chặng ba của cây ngó nhìn thiên hạ thỉnh thoảng đi ngang nhà, thấy mình giỏi giang cao lớn hẳn.
Tôi nhìn thấy tôi cầm nhánh cây rình đuổi bắt bươm bướm đủ sắc màu bay vờn quanh mấy bụi bông trang, bông mai, bông móng tay; tìm hút mật bông nhành nhành, bông huệ trắng... Vừa lẩm nhẩm hát:
Kìa con bướm vàng
Kìa con bướm vàng
Xoè đôi cánh, xoè đôi cánh
Bươm bướm bay đôi ba vòng
Bươm bướm bay đôi ba vòng
Bên hàng hoa
Bên hàng hoa
Thỉnh thoảng đánh trúng bươm bướm rơi xuống đất, tôi bắt đem ép vào quyển vở, (cho giống mấy thiếu nữ mơ mộng mà chị tôi hay kể giữa bạn bè với nhau, hoặc nghe tuồng cải lương trong radio).
Ép được chục con, mấy ngày sau mở ra xem thấy thân hình nó giẹp lép, lòi ruột ghê gớm,phấn ở cánh lem luốc, xác xơ. Nghĩ mình sao ác độc chắc sau chết sẽ bị đày xuống âm ty nên từ đó không còn dám nghĩ chuyện ép bướm vào vở nữa. Nhưng cái trò đuổi bươm bướm chạy quanh sân thì vẫn còn, thêm vài năm nữa mới ngưng.
Tôi nhìn thấy tôi lặng ngắm mấy bông mười giờ buổi sáng hãy còn nở rực màu đỏ sen tròn cánh, chưa qua buổi trưa đã co cụm héo rũ. Bần thần xót thương sao đời hoa ngắn ngủi mau tàn.
Héo trước trăm hoa, hoa bạc mệnh
Đang xuân để khỏi thấy xuân tàn
Chúa xuân ví biết tình hoa thế
Xin kiếp sau đừng nở thế gian
(Hoa Bạc Mệnh, J. Leiba )
Mở ngoặc : tuy còn con nít, nhưng thật sự là tôi đã biết “thương mây khóc gió” rồi đó. Có điều bài thơ nầy chỉ khi tôi lớn thêm chút nữa, tôi mới được đọc thôi.
Thanh Hà, Bích Thủy, Thúy Nguyệt Anh Tuấn, Thu Yên |
Chúng tôi cắc cớ lùa tay vào từng nhánh cây mắc cở (mà nhạc sĩ Trần Thiện Thanh gọi là hoa trinh nữ) để nhìn chúng e thẹn xếp lá và hoa lẫn trốn.
Hồi nhỏ tôi vốn đã ít nói (vì sợ người lạ), nhưng khá năng động, lí lắc, nghịch ngợm không thua ai, thích chơi đủ các trò chơi ngoài trời như nhảy dây, nhảy cò cò, trốn tìm, chơi bán hàng, nuôi cá thia thia, đá cầu (bằng lá gòn cột chùm lại), tắm sông, bắn bi, chơi cờ nhào, domino…nhất là đi phá phách mấy cây cối, hoa cỏ, là hung thần của đàn bướm…
Có lần chạy xe đạp đầm nhỏ ba má mua cho mấy chị em, tôi vừa chạy vừa tỏ ra ta đây giỏi, cứ ngoái lại đằng sau (chả biết nhìn gì nữ ), nên tông vào đầu chiếc xe lambretta đang đậu ngoài đường của bác hai hàng xóm cái rầm té nhào. Anh trai con bác lớn hơn tôi vài ba tuổi, đang chơi hay làm gì ngoài sân với vài đứa bạn, nhìn thấy bèn hù tôi:
—Chết rồi, con T.H đụng vô xe nhà tao bị móp rồi, tao mét cô dượng (tức là ba má tôi) bắt đền cho mầy chết.
Thời đó, bất luận con trai nói với con gái hể ai nhỏ hơn là cứ mầy tao mà kêu.
Thật là đồ…bất lịch sự, đồ…hổng biết galant gì cả.
Hăm bị mét, tôi sợ hết hồn vía. Chẳng nói chẳng rằng leo lên xe phóng nhanh về nhà, cũng chỉ cách có ba căn thôi. Cứ hồi hộp chờ “nó” lại mắng vốn, nhưng mà họ chỉ chọc chơi thôi chớ không có mét, báo hại mấy ngày tôi ăn ngủ chẳng yên.
2/-
Phía trước nhà tôi là con đường liên tỉnh nối liền Rạch Giá- Sài Gòn, phía sau là giòng sông phù sa hiền hoà, là nguồn nước cung cấp cho các gia đình dọc hai bên bờ sông chạy dài …không biết đến đâu nữa (!) vào mùa nắng hạn. Chắc là đến tận Saigon. Hồi nhỏ tôi chỉ biết đến Saigon thôi. Còn Huế thì quá xa, mà Hà Nội thì càng xa quá sức, tưởng như một vùng đất lạ lẩm nguy hiểm nào đó sẽ không bao giờ đặt chân tới.
Miền nam chỉ có hai mùa mưa nắng.
Mùa mưa đến, mọi người hứng nước mưa để uống, nấu thức ăn, tắm rửa giặt giủ. Thời ấy, môi trường không bị ô nhiễm bởi mọi thứ độc hại : khói xăng dầu, bụi bặm, hoá chất, con người cũng không sống chen chúc chật chội tranh giành diện tích với thiên nhiên, cây cối nên không khí rất trong lành dễ chịu. Nước mưa tinh khiết, nhà quê nào cũng sắm rất nhiều lu thật to để hứng dùng trong sinh hoạt, ăn uống…
Lu làm bằng sành nên giữ hơi mát. Giữa trưa trời nắng nóng, ai đi đâu từ ngoài trở về, chỉ cần một ca nước mưa giải khát , nước từ cổ chạy dần xuống cuống họng rồi đi xuống xa hơn… vào tới đâu là cảm thấy mát lạnh ngọt lịm đến đấy...
Ực !!!!
Đến mùa khô thì tất cả mọi sinh hoạt đều dùng nước sông, múc đổ vào lu, lóng phèn cho trong để nấu ăn, uống. Còn giặt quần áo, kể cả phóng uế đều tuồn hết xuống sông vô tội vạ, nghĩ rằng nước luân lưu theo thuỷ triều lên xuống mỗi ngày sẽ hoà tan mọi dơ bẩn chảy hết ra biển. Suy nghĩ đơn giản, dễ dàng. Ấy vậy mà hình như ai cũng chấp nhận, chả ai thắc mắc hay đặt câu hỏi gì về vệ sinh hết. Giờ nghĩ lại thấy ghê thật !
Thế mà , thời niên thiếu của chúng tôi, rất ít khi nghe nói có người chết vì ung thư hay nhiễm độc hay tai nạn xe cộ, tàu xuồng— nếu như trí nhớ tôi không kém thì lúc nhỏ tôi hầu như không thấy ai ở xóm tôi chết vì bịnh cả—. Rất hiếm mới có vài người cao niên qua đời, mà với 1 đứa con nít 7,8 tuổi là tôi thì họ đã già quá rồi mặc dù lúc ấy có thể họ chỉ mới ngoài 50, 60 chi đó.
Mở ngoặc : Thế thì bây giờ trong mắt của những trẻ con, chúng cũng xem tôi như là một lão bà, cụ bà rồi nhỉ !!!
Có lần tôi tình cờ đọc được một tờ báo xuất bản ở Vn, họ kể về một người mới 50 tuổi, mà ký giả gọi họ một cách kính cẩn là lão bà, cụ bà. Chị bạn tôi lúc ấy trên 60, chị cười ngặt ngoẽo, nói là thế thì chị đã lên hàng đại-lão-bà rồi đấy.
3/-
Từ Ngã Ba Rạch Sỏi về đến nhà tôi độ chừng 800m, phải đi ngang qua khoảng chục nóc gia người gốc Campuchia. Họ rất hiền lành hoà thuận đúng câu “ tình làng nghĩa xóm” với dân bản xứ.
Chính tôi có chị bạn tên Thị Kim Lên ( tên nhà là Chuột ) học chung thời tiểu học, tuy cùng lớp nhưng chị lớn hơn tôi ít nhất 3 hay 4 tuổi, ba chị làm cảnh sát nên cho chị đi học để biết chữ. Trọ nhà người bà con ở xóm ấy để tiện việc đến trường, vì nhà chị ở trong sóc nào đó mà vì còn nhỏ nên tôi quá vô tư không hỏi , mà nếu có hỏi cũng đâu biết là đâu.
Chị rất thương tôi, luôn bênh vực khi có bạn khác ăn hiếp. Mỗi ngày đi học, tôi thường ghé qua rủ chị đi cùng. Nhưng tựu trường năm lớp nhứt (tức là lớp năm) thì không thấy chị đi học nữa khiến tôi lẽ loi , buồn nhớ chị nhiều.
Bẵng đi chừng hơn một năm, một hôm chị ghé thăm tôi, có dẫn theo 2 đứa em gái, nhân dịp ra Rạch Sỏi thăm bà con. Dưới con mắt của một đứa bé là tôi thì trông chị ra vẻ thiếu nữ hẳn lên rồi. Tóc chị dài thêm, cột đuôi ngựa, cao hơn tôi cả nửa cái đầu, nhất là ở chỗ ngực đã u lên hai cục bự bằng trái quít (!) khiến tôi cứ tò mò nhìn lén. Nghĩ thầm: Trời ,sao chị nầy mới hơn một năm không gặp mà giờ đã đổi khác quá nhanh vậy, đâu còn chút gì là chị Chuột gần gủi ngày xưa của mình nữa đâu.
Chị giải thích là ba chị nói học nhiêu đủ rồi, là chị cả nên phải ở nhà để lo giúp gia đình.
Sau lần đó đến giờ đã nửa thế kỷ trôi qua, tôi không bao giờ gặp lại chị lần nào. Chị Kim Lên ơi, giờ chị ở phương trời nao? Chắc đã cháu đàn cháu đống rồi. Sao chị không đến tìm em, vì chị biết nơi gia đình em ở mà.
Tôi có đọc đâu đó, câu người Việt hải ngoại hay nói :”chúng ta đi mang theo quê hương “ để ám chỉ việc sân nhà họ trồng trọt vườn rau, cây ăn trái tiêu biểu cho món ăn thuần Việt nơi xứ người.
Thì người Cam-Bốt cũng vậy, nơi nào họ sinh sống là có trồng cây thốt nốt, cây me keo, cây ô môi…
Nên hiển nhiên có một cây thốt nốt được trồng bên vệ đường ở khu người Khmer cư ngụ , không biết từ khi nào, mà thân cây đã khá lớn phải hai vòng tay con nít mới ôm trọn, tàng lá xanh phủ rợp bóng mát . Đối diện với cây thốt nốt, bên kia đường là nhà của ông chú bảy Kinh ( ông tên Kinh, nhưng là người Khmer). Là một căn mái lợp lá dừa nước, như hầu hết các ngôi nhà thuở ấy, nằm hơi lùi vào trong, chung quanh trồng nhiều cây che khuất tầm nhìn từ ngoài. Ông nói tiếng Việt không rành, sống kín đáo, tiết kiệm có tiếng.
Mở ngoặc: Tôi hơi nhiều chuyện chút, người trong xóm kể lại rằng: sau năm 1975, có hai đợt đổi tiền thì mới phát giác ông bảy rất giàu chứ không như vẻ ngoài đạm bạc. Tiền giấu trong lu hủ, chỗ nầy chỗ kia. Mỗi người chỉ được quyền đổi một ít có giới hạn (không nhớ bao nhiêu, chắc vài chục hay vài trăm chi đó), nên tiền ông dành dụm bỗng biến thành giấy vụn. Ông khóc không thành tiếng, nhưng nhất định thà đem đốt mớ tiền hết giá trị kia chứ không chia cho hàng xóm để đổi phụ vì tiếc của do ông chắt mót . Nếu ông không được hưởng thì cũng đừng hòng ai khác được hưởng.
Hồi ấy xóm tôi vắng hoe, lâu lâu mới có người đi trên đường . Bọn trẻ bắt đầu lớp 1 cũng cuốc bộ đến trường chứ đâu có cảnh phụ huynh đưa đón dù lớn tồng ngồng sắp thi tú tài như ngày nay.
Mỗi khi chúng tôi đi về ngang cây thốt nốt, cũng là ngang nhà ông chú bảy Kinh,
bất kể sáng trưa chiều,luôn cảm thấy bất an vì cây cối khá rậm rạp âm u, sợ có …ma rình. Rón rén cố đi cho thật mau vượt qua đoạn đường ấy rồi mới vững tâm được. Nhất là khi trời mưa , chiều chạng vạng đi học về , tóc cứ dựng đứng, tưởng tượng nhỡ con ma núp trên tàng cây nhảy xuống hù nhát.
Đã vậy, trong cộng đồng hiền lành ấy có một ông thích uống rượu, say sưa cả ngày tên Tư Buôl. Khi say ông thường đi từ đầu làng đến cuối làng,mặc độc cái quần cộc ngả màu cháo lòng, chân nam đá chân chiêu, tay cầm chai rượu quơ quơ, miệng nói năng nhừa nhựa khiến bọn con nít sợ mất hồn vía, chạy núp vào kẹt cửa hay sau bồ lúa để trốn.
Nên ông bà cha mẹ thường doạ nếu đứa nào hư sẽ đem lại cho ông Tư Buôl bắt nhậu rượu. Ông ấy là nỗi kinh hoàng của đám trẻ chúng tôi. Mỗi lần đi học về mà lỡ thấy ông từ xa , là mặt mày xanh lét phải chạy ngược lại Ngã Ba nơi có đông người, chờ cho ông đi khuất mới dám về nhà.
Về sau , tôi không nhớ ông mất năm nào….chỉ nghe nói là bịnh gan.
Gia đình ông chú bảy Kinh không biết dời đi đâu.
Cây thốt nốt cũng cho đi hoá kiếp từ lâu rồi.
Còn tiếp kỳ 7, phần 2
Thanh Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét