1/-
Nhạc Việt Nam chia thành 2 loại: cổ và tân nhạc.
–Cổ nhạc: hát bội, cải-lương, chèo, ca trù…
–Tân nhạc: còn gọi là nhạc tân thời, cải cách. Xuất hiện vào giữa thập niên 1930 theo phương pháp ký âm Tây phương: do, ré, mi, fa, sol, la, si (tôi hay đọc là đồ rê mi pha sol la si đố). Tiên khởi từ các nhạc sĩ Hà Nội thủ đô của ngàn-năm-văn-vật. Theo nhạc sĩ Thẩm Oánh trong bán nguyệt san Bách Khoa 1963 thì buổi ra mắt công chúng đầu tiên là ngày 13/09/1938 bản“Đôi Oanh Vàng”* do 2 nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và chính ông-Thẩm Oánh- viết, được ban Myosotis- Hoa Lưu Ly- trình bày mục đích gây quỹ giúp Hội Ánh Sáng xây nhà giá rẻ.
*Có nguồn khác cho rằng bài Một Kiếp Hoa của nhạc
sĩ Nguyễn Văn Tuyên là1 trong các bản đầu tiên ra mắt công chúng, cũng cùng năm
1938.
*Ngoài ra còn các nhạc sĩ tiên phong cho nền tân nhạc
theo Tây Phương như: Lê Thương (Hòn Vọng Phu), Doãn Mẫn (Biệt Ly)…
*Ban nhạc Myosotis (Hoa Lưu Ly) gồm 3 nhạc sĩ gạo cội:
– Thẩm Oánh: tác giả Tôi Bán Đường Tơ, Nhà Việt Nam, Nhớ
Nhung…
–Dương Thiệu Tước: Ơn Nghĩa Sinh Thành, Bóng Chiều Xưa, Đêm
Tàn Bến Ngự, Ngọc Lan, Chiều, Tiếng Xưa…
–Nguyễn Thiện Tơ: Qua Bến Năm Xưa, Trên Đường Về, Giáo Đường
Im Bóng…
*Dương Thiệu Tước thuộc dòng dõi văn nho nhiều người làm
quan, là cháu nội của Dương Khuê,(được biết qua bài thơ nổi tiếng Khóc Dương
Khuê của cụ Nguyễn Khuyến- đồng môn-):
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…
…Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua…
Rất nhiều tác phẩm bất hủ trường tồn với thời gian, sống
mãi trong lòng người yêu nhạc qua nhiều thế hệ, thường được nhạc sĩ lấy cảm hứng
từ câu chuyện có thật của chính mình–từ hạnh phúc tình yêu với người-trong -mộng,
hay ngược lại từ sự đổ vỡ mất mát, sự cách ngăn chia lìa, sự tuyệt vọng tình phụ..-.
Nghệ sĩ vốn sẵn mang một nghiệp dĩ đa đoan, một tâm hồn bén nhạy, một trái tim
đầy trắc ẩn mượn lời ca tiếng nhạc chuyên chở nỗi lòng riêng nên có sức truyền
cảm sâu sắc đến người thưởng thức là vậy. Bởi “những-câu-chuyện-lòng” không phải
của riêng ai, mà ít nhiều đều rơi đúng vào tâm trạng hoàn cảnh của mọi người,
chỉ là chúng ta không đủ khả năng để diễn tả cho “mùi mẫn lâm ly” như các nhạc
sĩ thôi.
Tâm lý chung, con người vốn có tính tò mò. Tò mò là một
phẩm chất bẩm sinh, là thích quan sát, học hỏi để thu nhập kiến thức, lấp đầy vốn
sống. Khác với tọc mạch, chỉ chuyên đào bới chuyện giật gân của thiên hạ để mua
vui giải trí.
Khi nghe một bản nhạc, đọc một bài thơ bất luận thể loại
nào–hùng ca, tình ca, dân ca, du ca–rất ý nghĩa thì tôi thường tự hỏi sao nhạc
sĩ (thi sĩ) ấy có thể sáng tác giai điệu nhạc, thơ xuất sắc thế? Họ phải đem hết
tâm huyết, tình yêu, hoài vọng đặt vào từng nốt nhạc, lời ca nên mới có sức thu
hút lay động trái tim người nghe như vậy.
Trong kho tàng tân nhạc Việt Nam, lấy cột mốc từ 1938 đến
nay đã 87 năm không kể các nhạc-phẩm-tiền-chiến được hiểu là từ 1954 trở về trước.
Chỉ tính giai đoạn từ 1954–1975, trong vòng 21 năm thì hàng trăm nhạc sĩ ở miền
Nam đã để lại cho đời di sản âm nhạc đồ sộ với hàng ngàn nhạc phẩm vô cùng quí
hiếm đủ các thể loại mà ba, bốn thế hệ đời sau được thừa hưởng và không ngừng yêu
thích.
Trường phái âm nhạc thì đa dạng. Mỗi nhạc sĩ sáng tác
theo phong cách của họ, đều chiếm được sự hâm mộ của nhiều người (fan-theo ngôn
ngữ hiện nay)bởi “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Chúng ta
tha hồ chọn cho mình những nhạc phẩm “tủ, đánh trúng tim đen” để ngâm
nga than thở vui buồn tuỳ theo sở thích, tâm trạng, hoàn cảnh.
2/-
Nếu ai hỏi tôi thích trường phái (thể loại) nhạc nào nhất,
giai điệu nào nhất, bản nhạc nào nhất, ái mộ nhạc sĩ, ca sĩ nào nhất thì câu trả
lời của tôi rất ba phải và dài dòng rằng “gì, nào, ai” tôi đều thích. Miễn sao bài
hát đó, tiếng ca đó len qua từng ngõ ngách dây thần kinh, chạm-tận-đáy-tâm-hồn-tôi
đều được đón nhận cả.
Chúng ta có khối tài sản khổng lồ nhạc mà lại yêu thích
chỉ một vài ca khúc thì hoá ra tâm hồn chúng ta quá nghèo nàn khô khan èo uột,
phụ lòng của các bậc anh tài đã sáng tạo bằng cả tâm huyết của họ sao đành.
Lạc vào cõi nhạc cõi thơ cũng như lạc vào vườn hoa với đủ
sắc màu kiểu dáng mùi hương. Mỗi loại mỗi nét vẹn toàn ai sao nở thờ ơ rẽ rúng,
yêu thích có một?
Cho nên tôi yêu mến:
–Trường phái (thể loại): giao hưởng, tình ca, hùng ca,
dân ca..v..v..
–Giai điệu: tango, valse, ballad, slow rock, bolero,
boston, rumba, chachacha…
–Không đặc biệt riêng một nhạc sĩ một ca sĩ một bản nhạc
nào mà rất, rất nhiều…
Có điều tuỳ theo tuổi tác, thời kỳ, giai đoạn của cuộc đời
mà tôi thích và nghĩ về bản nhạc nầy nhiều hơn bản nhạc khác.
Những bản nhạc mà tôi sắp nhắc dưới đây, có thể (tôi nói có thể) không hẳn đó là những bài được công-chúng-yêu-chuộng-nhất. Mà là những bài ở-lại-trong-trí-nhớ tôi-dài-lâu cho đến tận bây giờ. Tôi được nghe hát từ nhiều nguồn: hoặc qua đài phát thanh, đài truyền hình bởi những ca sĩ nổi danh, hoặc từ những người-sống-đời-bình-dị như chúng ta (ý không phải ca sĩ chuyên nghiệp), cảm xúc khi nghe ca sĩ hát hay người-bình-dị hát mang lại cho tôi vẫn y hệt không khác gì nhau.
a)Thời trẻ thơ tôi thích nghe bà Ngoại, Má hát các bài đồng
dao, vè điệu ru em ngộ nghĩnh dễ thương
–Ầu ơ…ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học, mẹ đi trường đời. Ầu ơ…
–Nghe vẻ nghe ve, nghe vè con cút
Trâu ăn mấy chút, bắt mẹ tôi đền
Nắm chóp tôi lên, níu đầu cha chả…
…Trâu ăn ngoài đồng, bắt vô mà cột
Mâm trầu cho tốt, hủ rượu cho ngon
Có phải trâu con, thì con bắt lấy
Bớ bà bán giấy, mua lấy một tờ
Làm một cái thơ, gởi về bên ấy…
b) Giai đoạn 7-11 tuổi tôi “khám phá” tân nhạc nhờ nghe
Má tôi và các chú lính.
Thỉnh thoảng Má vừa ngồi may quần áo vừa ngâm nga, tôi
còn nhớ mỗi bài vài câu mà sau này lớn lên tôi mới thuộc hết nguyên bài.
–Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai chùng tơ lòng
(Con Thuyền
Không Bến, Đặng Thế Phong)
–Má kể hồi xưa vào những đêm trăng sáng Ba Má hay ra vườn
sau hè, ba đàn mandoline cho hai người cùng hát:
–Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bến sông kia
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
Trên bến cùng ai đã nặng thề…
…Bỏ thuyền bỏ bến bỏ giòng sông
Cô lái đò kia đi lấy chồng
Vắng bóng cô em từ dạo ấy
Để buồn cho những khách sang sông
(Cô Lái Đò, thơ Nguyễn Bính, nhạc Nguyễn Đình Phúc)
Ba Má tôi thời thanh xuân lãng mạn nghệ sĩ tính dữ ha!
–Có 1 thời kỳ các trung đoàn tiểu đoàn bộ binh hay trấn
đóng tạm ở xóm nhà chúng tôi. Các chú lính hồn hậu vui tính, chờ lúc chị em tôi
học bài xong hay kể chuyện vui và ca hát cho nghe.
*Nầy chàng từ hậu phương hay biên cương
Nơi đây chàng đến áo vương bụi đường…
…Dẫu biết cho rằng chàng là người
say chiến đấu
Dẫu biết cho rằng chàng là người yêu phiêu
lưu…
Này chàng hãy cùng tôi vui đêm nay
Mai đây dù có cách xa chân trời
Một lời mặn mà tin trao cho ngay
Tuy tôi chưa biết hỡi chàng là ai…
(Chàng Là Ai, nhạc bolero Nguyễn
Hữu Thiết)
Vài chú quê quán miền Trung, nên thường hát nhạc chủ đề liên
quan:
*Chiều nay có phải anh ra miền Trung
Về thăm quê mẹ cho em về cùng
Rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu
Về đến sông Hương núi Ngự
Để nhìn trăng lên cuối thôn…
(Quen Nhau Trên Đường Về, bolero nhạc sĩ Thăng Long)
*Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng
Nhớ chăng non nước Hương Bình
Có những ngày xanh, lưu luyến
bao tình
Vương mối tơ mành…
(Đêm Tàn Bến Ngự, điệu Habanera, NS Dương Thiệu Tước)
Có chú tặng cho chị tôi bản nhạc khổ lớn trang bìa vẽ dáng
cô gái mặc áo dài nhìn từ phía sau, cánh tay vịn chiếc nón lá đội nghiêng trên
mái tóc xoã ngang lưng:
*Trên đường về nhớ đầy/ Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây…
…Tôi là người lữ khách/ Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng/ Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc/ Khói huyền bay lên cây…
(Chiều, thơ Hồ Dzếnh, nhạc
Dương Thiệu Tước)
Trên radio tiếng hát liêu trai của ca sĩ Thanh Thuý với
bài Bolero Duyên Kiếp của nhạc sĩ đồng hương Lam Phương:
Em ơi nếu mộng không thành thì sao?
Non cao đất rộng biết đâu mà tìm…
…. Em ơi nhắc lại phút xưa gặp nhau
Trên đê vắng người lúc tan chợ chiều
Ngại ngùng mỗi lần anh đến tìm em
Má em ửng hồng vì quá thẹn thùng…
Bây giờ tôi vẫn còn “nhớ” cảm giác của 1 bé con (là tôi thuở
ấy) như thế nào. Tôi hình dung ra cảnh tan chợ chiều cô gái bước đi uyển chuyển
với gánh hàng trên vai, gặp chàng trai đứng chờ trên đê, cô vui mừng nhưng mắc
cỡ đôi má ửng hồng. Không hiểu sao bốn chữ “vì quá thẹn thùng” ăn sâu
vào lòng con bé 9,10 t đến giờ vẫn không chịu phôi phai. Chỉ mấy câu ngắn gọn
mà miêu tả Cảnh lẫn Tình của đôi nam nữ, thật dễ thương dung dị mà đầy đủ làm
sao! Tôi ái mộ cô ca sĩ Thanh Thuý kể từ dạo đó*
*Có 1 bài thơ lục bát tựa Ca Sĩ 12 câu của thi sĩ Hoàng
Trúc Ly mà người ta cho là khen tặng danh ca Thanh Thuý, nguồn khác nói là viết
cho danh ca Thái Thanh
Từ em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc, tay mời âm
thanh
Sợi buồn chẻ xuống lòng anh
Lắng nghe da thịt tan thành
xưa sau…
Hỏi thi sĩ thì ông không xác nhận là viết cho ai, chỉ trả
lời:” Đúng là tôi ngợi ca 1 ca sĩ, tuy nhiên chỉ là mối tình tưởng tượng. Mà
tôi quên mất bóng dáng giai nhân nào rồi”.
*Qua bến nước xưa lá hoa về chiều
Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa…
…Anh nhớ trước đây dáng em gầy gầy
Dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh…
…Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi
Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi…
(Nắng Chiều, nhạc Lê Trọng Nguyễn
Rumba-Bolero)
Bài này quá dễ thương, êm êm duyên dáng được ca sĩ Minh
Trang trình bày đầu tiên. (Bà là phu nhân của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, ca sĩ
Quỳnh Giao là con riêng của bà với người chồng trước).
Theo tôi, tất cả nhạc sĩ đều là thi sĩ. Lời ca sao nhẹ
nhàng mà nên thơ trữ tình!!!
–Cũng qua radio tôi được nghe giai điệu về cảnh giã gạo
vào những đêm trăng sáng như lời Má kể thời niên thiếu y hệt cách sống ở làng
tôi.
Trong đêm trăng tiếng chày khua
Ta hát vang trong đêm trường mênh mang
Ai đang say chày buông rơi nghe tiếng vơi tiếng đầy
Ai đang đi trên đường đê
Tai lắng nghe muôn câu hò đê mê
Vô đây em dù trời khuya anh nhớ đưa em về…
(Gạo Trắng Trăng Thanh, nhạc Hoàng Thi Thơ)
Bài hát được song ca bởi vợ chồng ca sĩ Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu
Thiết (ông cũng là nhạc sĩ sáng tác). Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã viết lời tựa:” Riêng
tặng hai bạn Nguyễn Hữu Thiết-Ngọc Cẩm, đôi giọng Nam Thương đã gieo trên giải
đất đầy chim chóc nầy vô vàn âm thanh, đậm lòng như những bát cơm quê hai màu
khoai sắn””.
(Theo nguồn Đông Kha-nhacxua.vn biên soạn)
Ngoài ra, tôi “mê” nghe các bài vọng cổ, tuồng cải lương
trên radio nhiều đến nỗi phân biệt giọng của hầu hết các nam, nữ nghệ sĩ. Mấy
câu vọng cổ của soạn giả Viễn Châu bài Võ Đông Sơ-Bạch Thu Hà, ông Minh Cảnh
hát thật mùi mẫn:
“Trời ơi! Bởi sa cơ giữa chiến trường thọ tiễn nên Võ
Đông Sơ đành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu…Hà. Bạn tình ơi, đừng hoài công mòn mỏi
đợi chờ…”
“Biên cương lá rơi Thu Hà em ơi
Đường dài mịt mùng em không đến nơi…
“…cây tuôn lá xanh xây mồ cho anh
Tình đầu bẽ bàng trong cơn chiến chinh…
c)- Não là một trung tâm thần kinh cấu tạo bởi hàng tỷ tế
bào. Nơi chứa đựng ký ức, cảm xúc, suy nghĩ, ngôn ngữ, điều khiển hành động…
Mỗi ngày bộ não chúng ta thu nhận bao nhiêu sự việc xảy
ra chung quanh, nhân lên gần cả một kiếp người vài chục năm, chất chồng hằng hà
sa số chuyện mưa nắng buồn vui bi hài sướng khổ. Ngăn tủ ký ức quá tải phải xoá
bớt hoặc xếp chúng nằm im 1 chỗ. Thế mà có những chuyện xảy ra gần đây thì quên
béng còn chuyện đời xửa đời xưa lại nhớ vanh vách từng chi tiết.
+Một người chị của tôi hay kể câu chuyện hồi ba chúng tôi
làm việc ở quận Thới Bình tỉnh Cà Mau. Lúc ấy chị 3 tuổi hay 3 tuổi rưỡi, được dẫn
đi chơi (không nhớ ai dẫn) chị vẫn nhớ mãi hình ảnh hai chú thanh niên mặc quần
short trắng, áo thun trắng đánh quần vợt xong rồi ra nhà thuỷ tạ cạnh bờ sông Trẹm(?)
hát:
Người ơi, nước Nam của người Việt Nam
Vì đâu oán tranh để lòng nát tan
Đây Bến Hải là nơi ngăn cách đôi tình
Đứng lên tìm chốn yên vui thanh bình
Chị nhớ rõ ba câu đầu–trí nhớ của 1 cô bé hơn 3 tuổi vậy
là quá tài tình–tôi tìm tòi thì biết đó là bài Về Đây Anh của hai nhạc sĩ Nhật
Bằng và Nguyễn Hiền sáng tác trước 1955, chưa đầy một năm sau khi đất nước chia
hai ở vĩ tuyến 17(1954). Kinh ngạc thay! Phải chăng tình-yêu-quê-hương đã hình
thành trong tâm hồn chị tôi– cô bé chỉ 3 tuổi– nên mới khắc ghi lời ca vào ký ức
chị đến tận bây giờ?!
++Phần tôi thì vào khoảng
năm 11 tuổi, tình cờ nghe chú lính thông dịch viên người
Huế hát bài Hai Màu Hoa, khiến lòng tôi xúc động đến giờ
vẫn còn hình dung được gương mặt dáng dấp lẫn giọng nói được sửa cho bớt âm Huế
của chú. Tôi nhớ nét mặt chú phong trần làn da rám gió sương, đôi mắt đượm buồn,
nhưng không nhớ tên chú, mới lạ.
Vì tình yêu chưa tha thiết với người
Giòng đời ly tan không hết cơn nguôi
Trách chi kiếp người vì cuộc sống trăm đường
Xa mặt cách lòng là chuyện đời hư không…
…Yêu ai trót nhận một lời (yêu cả một đời)
Những đêm ngắn ngủi ngồi gần bên nhau
Tình trong giây chốc hoá thành thiên thu
Biết thuở nào nguôi!…
…người tình năm xưa nay đã xa rồi
Định mệnh buông trôi chia cách đôi nơi…
…nói lên tiếng lòng của một kẻ si tình
Suốt đời ôm hận vì một người không yêu
(Hai Màu Hoa, thơ Bùi Tuấn Anh, nhạc Dzũng Chinh)
Tôi không trích lời theo thứ tự, mà chỉ chọn một vài câu
trọng điểm. Một điều lạ nữa: Hai Màu Hoa khiến lòng tôi cảm xúc chỉ khi
nghe chú lính hát, chứ gần đây có dịp nghe vài ca sĩ nổi danh trình bày hoà
cùng tiếng nhạc, ủa sao không gợi chút rung động nào trong tôi cả?!
Lẩn thẩn đặt câu hỏi: Không biết bây giờ chú ra sao, ở
đâu, có sống sót trong thời ly loạn không, hỡi chú-thông-dịch-viên-không-nhớ-tên?
Nếu may mắn chú còn hiện diện trên cõi đời ô trọc này thì nay cũng là “lão ông
bát thập cổ lai hy” ngót nghét 80.
Từ câu hỏi này gợi tôi nhớ về một bài hát bi tráng khác:
NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG
(Nhạc Hoàng Trọng& Dạ Chung)*
“Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy
nầy
Bây giờ anh ở đâu, bây giờ anh ở đâu?
Còn trên đời này đang xông pha đèo cao dốc thẳm
Hay đã về bên kia phương trời miên viễn chiêm bao
“Trên đầu anh cái nón sắt ngày nào ấp ủ mộng mơ của anh,
mộng mơ của một con người
“Trong cái nón sắt của anh mặt trời vẫn còn đó ban ngày
và ban đêm mặt trăng
Hoặc muôn muôn triệu triệu vì sao vẫn còn đó, tất cả vẫn
còn đó..
“Nhưng anh bây giờ anh ở đâu. Con ễnh ương vẫn còn gọi
tên anh trong mưa dầm…
“Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy
này
Anh là ai? Anh là ai? Anh là ai?
*Bài hát được ca sĩ Lệ Thu hát trong phim cùng tên Người
Tình Không Chân Dung (1971) do Hoàng Vĩnh Lộc làm đạo diễn, nữ tài tử khả ái Kiều
Chinh đóng. Nhạc sĩ Hoàng Trọng được mệnh danh là“vua tango”, còn Dạ Chung
chính là đạo diễn kiêm tài tử tài ba nổi tiếng Hoàng Vĩnh Lộc.
(Còn tiếp)
Thanh Hà
30/08/2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét