Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2015

Miên Trường Phía Sau

Truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Long (Thầy Nguyễn Ngọc Hoàng)

Xin chào nhau giữa con đường 
mùa xuân phía trước, miên trường phía sau...
                                                 (Bùi Giáng)


1. Bến đò chợ Giữa nằm ở ngã ba sông, một bên là chợ huyện, bên kia xuôi về kinh Cấm. Không ai còn nhớ tự bao giờ đã tên gọi khó nghe, đầy bí ẩn như vậy. Chỉ biết từ ngày giải phóng, chính quyền địa phương đã đổi tên đơn vị mới là phường An Lạc. Nhưng vài năm sau, dân chúng trong huyện lại trở lại gọi tên cũ là phường kinh Cấm. Rồi kể cả chính quyền, cũng chẳng ai màng đến tên của cái xóm nghèo xơ xác đó... Hầu hết dân trong vùng kinh Cấm sống bằng nghề đan và vá lưới gia truyền. Lưới kinh Cấm nổi tiếng cả tỉnh đẹp, bền và rẻ. Vậy mà dân chúng trong huyện không ai muốn léo lánh và cấm đoán cả con cái không được bén mãn đến gần. Người lớn kể lại rằng kinh Cấm là xóm của người cùi, thành lập từ thời Pháp thuộc. Trải qua nhiều đời, đến nay ngườI ta cũng rất thận trọng và ái ngại phải nhắc đến. Chính quyền cách mạng đã tổ chức nhiều chiến dịch cải cách, giáo dục dân chúng trong vùng về ấn tượng chia rẽ đó. Rằng kinh Cấm không còn là xóm cùi nữa, là bà con của chúng ta và đã có nhiều công trạng với cách mạng trong suốt hai cuộc chiến tranh. Những cố gắng, kêu gọi đó chừng như không thay đổi được nhiều trong ý thức sinh hoạt của dân chúng huyện. Cuộc sống cứ lặng lẽ trôi theo sự tái lập của nề nếp và thói quen. Nhưng nếu chỉ chừng ấy, đã không thành chuyện...

Cuối dãy chợ huyện là hàng bán và nhận đan vá lưới. Phần lớn là ngườI kinh Cấm, trong đó không ai không biết đến hàng lưới của Mây. Không phải nghề đan vá lưới của Mây khác với ngườI chung quanh, nhưng chỉ vì  Mây đẹp nỗI tiếng cả huyện, cả tỉnh. Không những với nhan sắc rực rở, mặn mà Mây lại được cả nết hiền dịu, đảm đang.
Mỗi ngày dập dìu trai tráng, đàn ông vảng lượn gian hàng lưới của Mây. Từ căn chòi lụp xụp, mẹ con nàng xây nhà gạch và thêm được vườn trầu sau nhà. Cũng không phải vì vậy mà Mây được lấy lòng người. Con gái trong huyện đã đành, đằng nầy cả những đám đàn bà và dân bán chợ ganh ghét, tị hiềm nàng ra mặt. Họ chuyền tai nhau về cái đẹp của Mây là dấu hiệu thời kỳ cuối, trước khi chứng bệnh cùi tàn phá. Họ chờ đợi và thầm mong cho mọi rũi ro, tai hoạ giáng xuống đời nàng không thương tiếc. Nhưng ngày qua tháng lại, Mây càng đẹp lộng lẫy và buôn bán tấp nập hơn... Vậy mà ngoài hai mươi, Mây vẫn âm thầm nhìn thời gian lướt qua bóng sắc mình trong gương cô độc. Họ, đám đàn ông thanh niên, chỉ lượn quanh ngắm nghía hay buông lời trêu ghẹo xuông xuông, nhưng chưa một ai dừng lại, cho nàng buổi hẹn hò hay ước hẹn sâu đậm hơn trong đời con gái. Nàng là bông hoa rực rỡ của những buổi chợ, nhưng đêm đêm bên dòng kinh Cấm nàng lặng lẽ khóc thầm cho thân phận nghiệt ngã, cho định mệnh trớ trêu. Thượng đế quá xa xăm còn người đời thì không ai nghe tiếng khóc nàng nức nở. Nỗi bất hạnh, cô đơn cứ cuộn tròn thắt chặc nỗi đau trong nhan sắc lộng lẫy của Mây. Chỉ vì nàng là con gái kinh Cấm.

"... Thương con, ông bà ngoại cẩn thận gởi mẹ cho vú nuôi từ nhỏ. Đến năm mười sáu tuổi, bà ngoại qua đờI, ông ngoại mới đem mẹ về nhà. Bấy giờ mẹ đã là cô gái trẻ, bình thường và khoẻ mạnh. Không đầy hai năm sau, ông ngoại cũng qua đời, để lại với căn nhà và nghề đan bán lưới kinh Cấm. Vừa tươi trẻ vừa giỏi giang, nhưng không ai dám đến gần để yêu thương hay dạm hỏi chuyện trăm năm. Mười mấy năm thoăn thoắt trôi qua, mẹ vẫn ngồi đơn độc, âm thầm đan vá những chiếc lưới mặn khô bên bờ kinh Cấm. Cho đến một hôm, người đàn ông nghèo, lãng tử đến hát rong ở cuối hông chợ. Họ quen nhau và lấy nhau trong mảnh đời tương ngộ. Rồi đến em chào đời, ba mẹ cũng theo nếp ông bà giao vú nuôi em. Mẹ nói sau đó cha mất sớm, bà đành đem em về lúc mới đầy tám tuổi. Sống chung nhà nhưng mẹ và em ăn không cùng mâm, ngủ không cùng giường, đồ dùng từ nhỏ đến lớn mẹ đều sắm riêng. Mấy chục năm nay không có dấu hiệu nào của căn bệnh hiểm nghèo đó... Nhưng gần đây, mẹ đau nhức từng khớp xương và tai, mặt bắt đầu chai sượng. Em muốn anh biết và hiểu rõ điều nầy trước khi anh dừng lại hoặc bỏ đi. Mãi mãi, em sẽ không trách cứ gì đâu..! "                    

Bến Trống chạy dài theo bãi sông, nối liền với biển mặn. Dọc bờ là rừng mắm, loại cây thân võ khô, rễ tua tủa lên trên mặt đất bùn non. Giọng nói nhỏ, đều của Mây như khuất chìm trong gió biển. Tôi cúi xuống hôn những giọt nước mắt nàng mằn mặn, long lanh khoảng trời xanh nhạt cuối ngày. Mọi hoang mang, do dự chợt tan biến giữa niềm yêu thương tràn ngập chung quanh. Tôi hiểu mình đang giữ hạnh phúc trong tay, như một định mệnh thiết tha, không lựa chọn. Nhìn thật sâu vào đôi mắt Mây, tôi vẫn không tìm thấy được bóng dáng của thử thách và nghiệt ngã. Cả tôi và nàng. Bên cạnh Mây chừng như tôi dễ tin hơn với cuộc đời không rộng lượng nầy. Trong tay tôi, nàng bỏ quên những nổi sợ hãi và khinh miệt của con người, lòng độc ác và chật hẹp chung quanh.            

Thế hệ tôi lớn lên và trưởng thành bằng kinh nghiệm của khả năng sinh tồn và lòng nghi kị. Từ đó, mọi ước mơ dù bé nhỏ đến đâu cũng được che dấu kỷ dưới bộ mặt giả tạo của đời sống. Tôi về chợ Giữa sống chung với gia đình Hai Chài đã hơn nửa năm. Gần như bạn bè, hàng xóm không ai còn nhớ và biết tên thật của Hai Chài, ngoài đám công an địa phương và tôi... Sau sáu tháng học tập chính trị và  triết học Mác Lê-nin, tôi được "công lệnh" về dạy trường trung học phổ thông huyện. Khu nội trú của giáo viên là ba lớp học được ngăn chia bằng mấy tấm vách phên tre vừa che khỏi đầu. Ba cô một phòng, ba thầy một lớp. Mọi người sống co cụm, dòm trước ngó sau...

Tôi quen với Hai Chài trong dịp tình cờ chiếc xe đạp thổ tả của tôi đứt "xênh" nằm đường. Lớn hơn tôi vài ba tuổi nhưng trông Hai Chài già dạn, phong sương hơn nhiều. Phần do nắng gió vùng biển mặn, phần khác đầu trần mình trụi hằng ngày với chiếc ghe chài, anh nuôi cả gia đình một vợ bốn con. Tô Văn Trợt, tên khai sinh của Hai Chài, là con trai lớn của gia đình đông con sinh sống bằng nghề chài lưới dọc theo vùng biển hòn. Trước đó, Trợt là lính địa phương quân. Sau ngày giải phóng, anh trở về đây tiếp tục nghề đánh lưới truyền thống của cha ông mình. Cái tên Hai Chài đẻ ra từ đó.             

Sau vài lần đến trường thăm tôi, Hai Chài nì nằn cho bằng được để tôi dọn về ở trọ nhà anh. Cũng không xa trường, tôi vừa cải thiện đời sống vừa giúp anh dạy kèm mấy đứa nhỏ ở nhà. Mỗi ngày từ bốn năm giờ sáng, Hai Chài đã xuống ghe đi lưới tận đến chiều chạng vạng mới về tới ngõ. Đời sống lúc càng khó, một con cá đến năm bảy người lưới, anh đi sớm về tối nhiều hơn. Vợ anh cũng đầu tắt mặt tối, nuôi con nhóm chợ, làm mắm làm khô, không phút nghỉ tay. Đến nổi anh phải nhờ tôi đi bỏ vá lưới rách hoặc đi lấy lưới đã mạng rồi. Tôi có dịp quen Mây và rơi vào tình nàng tha thiết...          

- Vĩnh ơi, hãy nhìn em thật kỹ. Em không muốn chúng ta bị cảm xúc lừa dối để một đời luôn sợ hải và mọi người lánh xa.           
- Ngoài tình yêu của Mây, cuộc đời đã không còn trong anh và nỗi sợ hải đó to lớn hơn cả cái chết.           
- Nhưng anh có cả cuộc đời trước mặt. Còn em chỉ có bóng tối của ngày mai. Và cả định mệnh, định mệnh cũng không dành cho em được sự rủi may!  Em đã quen rồi sự chấp nhận cho mọi nỗi bất hạnh. Sự bất hạnh biết trước....
Còn anh, tình yêu em nhỏ bé biết chừng nào, với một đời anh vùi chôn trong sự ghê tởm của mọi người chung quanh..! 
           
Mây nói thật nhanh, nghẹn ngào trong tủi nhục. Tôi như một con thú vùng vẫy trong chiếc lưới bẫy của chính lòng mình, xức trầy những vết thương tuyệt vọng.           
- Anh không cần thế giới to lớn, xa lạ đó. Anh chỉ cần em, tình yêu của em mà thôi. Tình em là hơi thở trái tim anh, mất nó, đất trời nầy sẽ là một khoảng trống mênh mông, vô nghiã. Mây ơi, đừng để anh phải chết mòn trong tuyệt vọng.  
        
Tôi nói như lời cầu kinh vang vọng trong gió biển. Mây hiểu. Hơn bao giờ hết, tôi biết Mây hiểu tấm lòng tôi và những gì nàng đang đối diện. Mây đang giả dối với chính mình! Tôi là mọi yêu thương, mọi ước vọng, là tất cả ý nghĩa cuộc sống đời Mây. Tôi đã đến và đã dừng lại. Đã nhìn thấy được trái tim nóng bỏng thiết tha, xuyên qua lớp vỏ nhan sắc tầm thường kia của nàng. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho những cay nghiệt, đớn đau có thật. Tôi nâng khuôn mặt Mây và nhìn thật sâu. Thật sâu như để cố tìm kiếm sự ghê tởm hoặc kinh hải mà người đời đã dành cho nàng. Tuyệt nhiên không. Mà trái lại, tôi thấy nàng thật đáng yêu, thật trong sáng và thánh thiện. Chỉ có những ý nghĩ thoáng qua của tôi với Mây, là đáng khinh tởm. 
Thời gian ngưng đọng, nhẹ tênh. Trước mắt tôi hiện lên một mặt biển xanh thẳm màu hy vọng. Ở đó sẽ là tương lai, một định mệnh chờ đợi mà tôi không màng biết tới. Vì sẽ có Mây, vì sẽ có tôi.  
               
- Mây, đây sẽ là tất cả số phận cuối cùng cho tình yêu chúng ta. Đêm mai là đúng thời điểm của kế hoạch, anh cùng gia đình Hai Chài rời bến...Em hãy treo ngọn đèn bão làm hiệu trước hiên nhà và đợi ở cuối kinh Cấm vào lúc một giờ khuya. Thấy ngọn đèn bão, anh Hai Chài sẽ ghé đón em ở cuối bờ kinh. Nếu không thấy ngọn đèn, là em khước từ cùng anh trong chuyến hành trình vô định nầy. Tất cả ở em, trái tim anh không còn thuộc về anh nữa. Nó sẽ thuộc về ngọn đèn bão đêm nay, trước hiên nhà và bóng hình em ở cuối dòng kinh Cấm.  
         
Mặt trời đã khuất dần phía sau dãy rừng mắm. Tất cả lặng im, chỉ còn lại hơi thở dồn dập, nặng nề của tôi và Mây. Gió từ biển thổi vào bắt đầu trăn trở lạnh. Khuôn mặt Mây trắng lờ mờ, huyền hoặc từng đường nét liêu trai. Không kềm chế được xúc cảm tràn ngập, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên đôi môi nàng hé mở.  Mây như lòng biển đêm bất chợt chuyển mình trước cơn giông bão. Môi nàng bám chặc môi tôi, đầu lưởi nàng cuốn lấy đầu lưởi tôi tê dại, không rời... Và, bàn tay tôi tự lúc nào, đang mơn trớn, dẫy dụa trên bờ ngực Mây vung tròn, căng cứng. Thảm lá chết, nực mùi bùn lợ như đan tấm thảm lụa bằng những sợi nhung của da thịt nồng ấm, cháy rực. Tôi như cánh diều vun vút gió bốc cao, thật cao căng đầy xúc cảm. Cưỡng chế. Dồn cứng. Vỡ tan trong muôn vàn tiếng kêu vang của tận cùng hạnh phúc và tuyệt vọng...      
 2.

Quá nửa khuya, đêm tối đen không thấy mặt người. Dọc bờ kinh Cấm,  những dãy nhà lạnh câm, chìm sâu trong giấc mơ hải hùng truyền kiếp. Không có ngọn đèn bão trước hiên nhà.     

3.           

Giọng kể đều đặn của tôi chìm dần, mất hút trong căn phòng khách sạn lờ mờ sáng. Bên cạnh, đứa con gái người Phi-líp-pin giương đôi mắt đen tròn nhìn tôi.              
- Câu chuyện xảy ra bao lâu rồi ông?              
- Vào đêm không trăng, cuối tháng Mười năm 1978.              
- Ông có trở về và gặp lại cô ấy nữa không?              
- Không. Tôi đã không trở về kinh Cấm hơn hai mươi năm nay.              
- Vậy câu chuyện tình của ông đến đó là hết.              
- Phải. Đến đó là hết.             

Đứa con gái thở dài nhè nhẹ. Tôi đưa mắt nhìn con số đồng hồ màu đỏ tươi  để trên mặt bàn. Đã hơn hai giờ sáng. Tôi bật ngồi dậy, nói nhỏ:              
- Tôi phải đi bây giờ. Cô có thể về được rồi.              
- Nhưng... em chưa làm được gì cho ông! Vả lại, ông đã trả tiền bao em hết cả đêm nay kia mà.               
- Tôi biết. Thật cô không sợ tôi sẽ mang chứng bệnh cùi và lây qua cho cô sao ?
- Ông nghĩ rằng em tin câu chuyện của ông là có thật…? Đến bây giờ, ông đã có vợ con gì chưa?
- Tôi đã có vợ lâu rồi. Xin cảm ơn cô đã lắng nghe hết câu chuyện của tôi.
- Tin hay không, tùy cô… Tôi đã có vợ lâu rồi. Xin cảm ơn cô đã lắng nghe hết câu chuyện của tôi.
- Em cảm ơn ông mới phải chứ. Vì ông trả tiền, mà em thì chỉ nghe câu chuyện kể của ông thôi. Như vậy em thấy không công bằng...            
Đứa con gái nắm tay tôi giữ lại. Dưới ánh đèn mờ đục, khuôn mặt nó thật giống như  Mây với mái tóc buông xõa nửa vai. Tôi cúi xuống nâng mặt đứa con gái người Phi, thấy cả hình ảnh xinh đẹp của Mây hơn hai mươi năm về trước. Bây giờ tôi gần bốn mươi bảy tuổi, tóc đã bạc râm hơn nửa mái đầu...
Tôi hôn vội, phớt nhanh trên đôi môi nhỏ nhắn, hé mở dễ thương của cô gái.              
- Nếu ông không muốn làm tình, ông hãy nằm xuống, nhắm mắt lại và mơ về cô ấy. Em sẽ làm cho ông thỏa mãn, tận cùng khoái cảm!              
- Không. Tôi không muốn gì hết... Xin chào tạm biệt và chúc cô nhiều may mắn.              
- Cám ơn ông và chào tạm biệt.          
       
 4.

Dãy phố đêm đã chìm sâu, vắng lạnh. Như bao nhiêu lần khác, tôi lại nói dối với đứa con gái điếm người Phi. Đến nay tôi vẫn sống một mình, không vợ không con. Và, tôi đã trở về kinh Cấm vài năm trước đây, để mong tìm gặp lại Mây. Tất cả  không còn nữa. Không còn ai nhắc đến cái tên kinh Cấm. Không ai biết Mây ở đâu và sống hay chết... Nhưng phần cuối câu chuyện do người hàng xóm kể lại, sau ngày tôi ra đi và mẹ Mây mất. Phần cuối chuyện nầy, tôi không kể ai nghe và sẽ giữ riêng cho mình, mãi mãi.                
... Đêm đó biển động, gió thổi về kinh Cấm lồng lộng. Người đàn bà nằm yên lặng, lắng nghe từng tiếng thổn thức của con gái mình. Bây giờ không phải một, mà hai. Mây mang thai hơn năm tháng nay, bụng đã đội cao. Chẳng bao lâu, mầm sống trong bụng Mây sẽ trở thành một kiếp người xương thịt. Sẽ là nguồn sống, tình yêu và niềm hạnh phúc vô biên của Mây, như chính của bà ngày xưa...
Bà nhớ rõ như mới hôm qua, khi gặp người đàn ông đó cất tiếng hát đầu tiên ở cuối hông chợ. Họ đã thuộc về nhau, bất chấp thế giới chung quanh, bất chấp mọi rủi may cuộc đời. Họ đã tìm thấy ý nghĩa thật sự của tình yêu, của hạnh phúc đời nầy. Thời gian với họ chỉ là sự tồn tại tạm bợ của xác thân. Với tình yêu họ đã tìm thấy được sự vĩnh cửu. Người đàn ông đó đang đợi bà bên kia phần thế giới mênh mông, vô xác vô thân, vô hình vô tướng...
Nhưng bây giờ, trước mặt bà không chỉ là đứa con gái thân yêu duy nhất của bà, mà chính là hai cuộc đời của mẹ con Mây. Bà hiểu thật rõ, Mây là tất cả  đời bà. Nhưng bà cũng thấm thía hơn, khi bà mất đi, Mây sẽ hiểu được sự thật về chính thân phận của mình. Bà đã trở thành con người ích kỷ, độc ác vì tình yêu bà dành cho Mây. Nỗi đau đớn dày vò lòng bà hơn cả cái chết. Những cánh cửa địa ngục mở rộng chờ đợi, bà không chút sợ hãi. Nhưng, giữ kín sự thật đời Mây là nỗi ám ảnh nặng nề và ghê gớm nhất đang trừng tâm hồn bà. Làm sao bà quên được, ngày vợ chồng bà tìm thấy đứa trẻ sơ sinh cuốn tròn trong chiếc khăn bàn, nằm khóc khan góc chợ vắng tanh. Như một thiên thần đem lại biết bao tình yêu, hạnh phúc cho suốt cuộc đời vợ chồng bà. Đứa trẻ thơ đó là Mây... Bà nghẹn ngào nuốt từng giòng nước mắt khô lặng lẽ chảy ngược vào lòng. Thời gian đã điểm, cái chết tầm tay. Bà ra dấu con gái lại gần, thật gần. Mẹ con chỉ còn cách nhau lớp vải mùng mỏng manh. Bà trút hết sức tàn, mở mắt nhìn thật sâu khuôn mặt con với niềm yêu thương trời biển:             
 - Mây, con hãy đem đứa con trong bụng rời khỏi nơi nầy... Con và nó  không thuộc về kinh Cấm. Vì... vì, con không phải là con ruột của mẹ.           

Sau ngày chôn cất mẹ, người kinh Cấm không còn thấy bóng dáng của Mây đâu nữa.  Có người đồn rằng Mây lên sinh sống ở vùng cao nguyên và sinh được đứa con gái cũng xinh đẹp như mẹ. Lại có tin đồn khác, dân đánh cá địa phương vớt được xác cô gái có thai, trôi dạt tận vùng biển hòn. Nhưng dù thế nào, mọi người trong huyện đều xót xa, thương tiếc cho người con gái đẹp vùng kinh Cấm.              
Đến nay hư thực ra sao, không ai biết rõ và cũng không ai còn nhắc đến nữa. Có điều lạ là, vào những đêm không trăng tháng Mười, mọi người ở dọc bờ kinh đều treo ngọn đèn bão trước hiên nhà. 


Nguyễn Vĩnh Long

1 nhận xét:

  1. Truyện viết không có bố cục, nhân vật 'Tôi' có lúc là Mây, lúc nhảy sang thành Vĩnh

    Trả lờiXóa