Thứ Năm, 5 tháng 12, 2024

THƠ PHẠM HỒNG ÂN NHỮNG TRANG KINH THẤM ĐẬM TÌNH NGƯỜI

 Đoàn Nhã Văn

Tôi đọc thơ Phạm Hồng Ân có lẽ bắt đầu từ khoảng 1995 -

Cây bút phê bình văn học hải ngoại: Đoàn Nhã Văn
1996. Dù ở cùng thành phố và dõi theo những vần thơ của ông suốt gần ba mươi năm qua, tôi vẫn chưa một lần được gặp riêng ông, hoặc biết nhiều hơn về cá nhân ông. Độc giả địa phương chẳng xa lạ gì thơ Phạm Hồng Ân. Độc giả bốn phương ngoài biết ông là một người lính yêu quê hương như chính thịt da mình, còn biết đến những vần thơ đầy mật ngọt của ông. Biết như vậy, nhưng vẫn chưa đủ. Hãy để ông tự giới thiệu thêm một chút về mình với những người yêu chữ nghĩa.

“Ta mang áo trận năm năm chẵn

Khí khái đong đầy mỗi bước chân

Sáu năm tù rạc dài đăng đẳng

Hề phá cùm gông mộng xuất quân”.

(Bốn năm rời cố xứ)


Năm năm áo trận, sáu năm tù, mấy mươi năm viễn xứ, vậy là tạm hiểu nhau. Tuy vậy, thơ ông có từ trước những ngày mang áo trận, từ đó đến nay đoạn đường đã trên 50 năm. Trên quãng đường dài ấy, cõi thi ca của ông mang nặng một mối tình lớn với quê hương. Mà mỗi địa danh ông đi qua đều bằn bặt những nỗi lòng thương, nhớ ấy.

Nhà thơ Du Tử Lê khi gặp lại những người bạn cũ, vừa đi theo diện HO đến bến bờ tự do, ông viết: “Nhìn nhau chợt thấy ra sông núi”. Du Tử Lê có thể hình dung, có thể thấy ra sông núi qua hình ảnh bạn mình, nhưng chắc chắn ông chưa thấm đẩm cái tình với đất nước như Phạm Hồng Ân - một người ở lại từ 1975, chịu đắng cay tù đày và nhiều năm dài đằng đẳng đi giữa gia tài của Mẹ, bước trên đất hương hỏa của Cha, lại mang tâm trạng của một kẻ mất quê hương.

“như ngựa lạc bầy, như chim xa tổ

ta cất lên tiếng nấc của giống nòi

khóc cho những hồn linh vừa vỡ đổ

lịch sử buồn theo từng tượng gục rơi”

(Khóc cùng đổ nát)


“Tan tác nhau vỡ tung đời nghìn mảnh

Chim ngậm trời kéo mây gió tha phương

Dốc tuột núi chìm đáy sâu tuyệt tận

Cổ tích bay từ huyệt đất quê hương”

(Lá Thu)

Thật thế, Phạm Hồng Ân đã mang cả quê hương trên đôi vai của mình, đã chứa nổi niềm thăm thẳm ấy ở từng mỗi tế bào. Nếu không quặn lòng với mảnh đất ông cha, làm sao viết lên những vần thơ day dứt lòng người như thế này:

“lắng nghe mưa thét trong lòng núi

đá bỗng vang lời tổ quốc tôi

ngọn lửa thiêng xưa, sao đã nguội?

sầu bủa vây quanh chỗ ghế ngồi


hàng trăm năm nhân danh cái chết

máu đổ ra, người vẫn chưa vừa?

lắng nghe sấm thét trong đời đá

xé nát lòng tôi tiếng núi mưa”

(Xé nát lòng tôi tiếng núi mưa)

Có cần giải thích thêm không về tấm lòng của người lính hải quân với âm vang của Tổ Quốc trong từng hơi thở? Không! Hai khổ thơ trên đủ bày tỏ tâm can của một con người luôn đập cùng một nhịp với quê hương.

Tôi đọc thơ không dưới vài trăm tác giả có thơ xuất bản. Nhưng chưa bao giờ thấy thơ ai chứa đựng rất nhiều những địa danh quê hương như thơ của Phạm Hồng Ân. Từ Sài gòn, Gia Định, Thủ Thiêm, Ninh Kiều, Bến Tre, Tân Định, Bạch Đằng, Cà Mau, Năm Căn, Hàm Rồng, đến Phú Ninh, Mộc Hóa, Long Khốt, Cồn Dơi, Phú Đức, Thới Bình, Cai Lậy, Hòn Tre, Hòn Thơm, Hòn Nghệ, An Thới, Vàm Cỏ Tây, dòng Cái Lớn, kinh Nhiêu Lộc, kinh Cái Nháp, đỉnh Cô-Tô, đồng Minh Hải, đến bắc Năng Gù, dòng Tắc-Thủ,  trời Huyện-Sử, xứ Ðầm-Dơi, trại tù Vườn Đào - Mỹ Phước Tây, v.v. và v.v.

Qua những địa danh ấy, độc giả như đi qua những dòng nhật ký của thời gian, những dòng nhật ký về những chuyến hải trình của người lính hải quân năm nào. Nhưng đằng sau những con chữ đồng cảm, và những tứ thơ mật ngọt ấy, là tấm lòng không chỉ của một người lính trẻ, mà còn là một người tha thiết với mỗi tấc đất quê hương, mỗi con kinh con lạch của quê nhà.

“Tôi về như dòng kinh Nhiêu Lộc

Trôi kiếp nhân gian cõi đục ngầu”

(Buổi sáng ở Tân Định)


Bạch Đằng. sóng vỗ. mạn tàu

Ra khơi. chỉ có sông sầu. tiễn đưa”

(Nợ Sài Gòn)


“ngó trăng vằng vặc làng Long Khốt

thương chiếc xuồng ai vội vã bơi

thương cánh dơi đêm bay hoảng hốt

giặc đã qua sông, lửa ngút trời”

(Về lại Long Khốt)

Những câu thơ như thế, đọc, nghe “đã” gì đâu. “Đã”, khởi đi từ cách thế mà ông dàn trải, tự nhiên và chân thành. Đó cũng là điểm khởi đầu mở ra những rung động lớn.

Và còn rất nhiều những địa danh thân thương khác đi vào trong cõi thơ của Phạm Hồng Ân đầy ân tình như thế.

Điểm thứ hai mà độc giả dễ nhận  thấy ở cõi thơ của Phạm Hồng Ân là nỗi chung tình với bè bạn. Ở đó, có người nằm xuống còn rất trẻ trong thời chinh chiến điêu linh, có người gặp nhau sau những tháng năm tù, cũng có người sau 40 năm gặp lại nhau trên đất khách. Thời gian có khác nhau, nhưng tấm lòng của thi sĩ trước sau vẫn là một.

“Tôi đứng ngó đại ngàn

Xác xơ một đời phế tích

Lòng chớm thấy thiên thu

Trong ngổn ngang trùng trùng tro bụi

Nơi các anh vùi thây

Hài cốt chưa mồ yên mả lặng

Nơi các anh bị bỏ quên

Tung tích vô danh chiến sĩ”

(Bóng tối)

Hoặc, viết cho bạn lúc ở tù chung.

“Anh là kiếm sĩ sầu sông núi

Bẻ gãy gươm nhìn lịch sử quay

Ta vươn hèn mọn đời cổ thụ

Ngồi ngó hư không tiếng thở dài”

(Kỷ niệm)

Mấy chục năm sau ở xứ người nghe tiếng gọi từ Cà mau mũi đuốc.

“nửa đêm đang ngủ nghe mày gọi

tiếng gọi từ Cà Mau quê hương

muốn chửi thề, nhưng sao thấy tội

thằng bạn già lẩm cẩm đáng thương!”

(Bài cho Nghê Việt Long)

Trong cõi thi ca của Phạm Hồng Ân, ngoài viết cho Mẹ Việt Nam thân thương, ông còn có những vần thơ viết cho hai người phụ nữ quan trọng nhất đời ông: người Mẹ của riêng mình và người bạn đời chung bước mấy mươi năm với bao thăng trầm của đời sống. 

Nhiều bài thơ viết về Mẹ trong cõi thơ Phạm Hồng Ân rất gần gũi, mộc mạc. Đọc xong, thấy như có bóng dáng của mẹ mình trong ấy. Đó là cái hay của tác giả biến cái riêng thành cái chung. 

Có rất nhiều thi nhân, văn sĩ đã làm thơ cả đời, viết cả ngàn trang sách, tuy vậy không có nhiều người làm nên những câu thơ rất ân tình tặng vợ.  Nếu ngày xưa có Trần Tế Xương viết dăm bài thương vợ, qua cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, chúng ta có cả ngàn thi sĩ, nhưng chỉ có trên mười đầu ngón tay những thi sĩ có những bài thơ rất gần, rất thật, rất cảm động về VỢ của mình. Trong đó có: Nguyên Sa, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, một số rất ít các thi sĩ khác, và dĩ nhiên là Phạm Hồng Ân. Ai đã từng làm thơ đều biết rằng những bài viết cho vợ không dễ. Viết cho vợ mà viết hay càng khó hơn. Viết cho vợ mà tạo sự đồng cảm ở bạn đọc càng khó hơn nữa. Ở Phạm Hồng Ân, viết cho người tình trăm năm của mình, thơ ông tự nhiên, nhẹ nhàng như mước chảy mây trôi, chẳng cần lên gân, chẳng cần chữ nghĩa bọc đường phù phiếm. Thơ cứ từ cõi lòng dàn trải theo tháng năm. Cũng chính vì thế, ông có nhiều những câu thơ đẹp, đầy ắp những ân tình qua bao nhiễu nhương dâu bể. 

Tôi không trích dẫn ra đây về những phần thơ viết cho Mẹ hoặc cho người bạn đời của Phạm Hồng Ân. Tôi muốn để bạn đọc tự khám phá góc riêng này của ông, và biết đâu sẽ bắt gặp những vần thơ chân chất nhưng rung động; giản dị đơn sơ nhưng chứa đựng cả một bầu trời ân tình, nhân nghĩa.


***

Viết gì thì viết, nhưng để độc giả nhớ, trước hết thơ phải hay. Ở cõi thơ của Phạm Hồng Ân, ông dàn trải bằng rất nhiều hình ảnh. Và dĩ nhiên cũng bằng rất nhiều những câu thơ đẹp.

“Tôi như hồn những con tàu

Ra khơi để lại bến sầu sau lưng”.

(Đại bàng qua sông)


“mưa người ướt vạt đất đau

bốn mươi năm hạn bạc màu sinh linh

nắng phơi xương cốt hòa bình

thấu hư vô táng lời kinh chiêu hồn

ơn người trăm giọt mưa tuôn

lòng như vạt đất đẫm hương mùa tình”

(Khúc mưa)

Những vần điệu ngọt ngào như vậy nghe như rót mật vào tai.


“Sầu ta trắng xóa đỉnh cao

Ðời buông thạch nhũ lao đao cội nguồn.

Cuộn nhau trong đất trời buồn

Ðôi chân Bắc Mỹ. Linh hồn Cửu Long”

(Chicago)

Câu thơ “Ðôi chân Bắc Mỹ. Linh hồn Cửu Long” của Phạm Hồng Ân có nét giống một câu thơ của Viên Linh, “Mưa đưa tôi lại Sài Gòn / Trán căng nhiệt đới hồn còn Đông Dương”, trong bài “Lầu Chuông”, sáng tác vào 1978. Tuy nhiên, Viên Linh chỉ nói chung chung về một Đông Dương. Còn Phạm Hồng Ân hướng về một thổ ngư, một vùng sông nước miền Nam. Cái ông nói tới, trăm ngàn độc giả có thể “thấy”, có thể “sờ”, cũng như đã từng ăn ở với mảnh đất gạo trắng nước trong nhiều ân tình ấy. Cho nên, câu thơ của Phạm Hồng Ân thật hơn, đời thường hơn, và vì thế dễ lay động lòng người hơn.

Một ví dụ nữa, 


“Ta về nằm giữa biển đông

Hai tay ôm lấy trăm sông nghìn rừng”

(Nghìn rừng giông bão ngục tù trăm sông)

Bạn có để ý cách dùng chữ theo cấp số nhân trong hai câu thơ đó không? Đó là một cách tu từ trong văn chương, đưa cảm xúc lên cao độ từ hai, đến trăm, đến ngàn, đẩy những con chữ đi xa và bay cao. Thủ pháp này không chỉ dùng trong một bài, mà tôi thấy có nhiều bài như thế, trong suốt chiều dài ở cõi thơ của ông.

Tôi để ý thấy một nét khác trong thơ của ông. Hãy đọc thử hai bài thơ dưới đây.


“Dưới tàng cây đại thụ

Cỏ dại lấm tấm bông

Xôn xao một đàn én

Ngậm từng mảnh trời hồng”.

(Xuân dưới tàng cây đại thụ)

Hoặc:


"Em nằm một góc trời riêng

Dưới chân hình tượng nghiêng nghiêng số phần

Và ta – bụi cát phân thân

Nửa theo biển rộng, nửa gần núi cao”

(Đón Tết ở công viên Heo-May)

Ta thấy gì ở hai bài này? Bài thứ nhất chỉ có bốn câu thôi, nhưng đọc xong, cái ý thơ cứ kéo dài mãi. Gom được hình ảnh: đại thụ và cỏ dại; đàn én với trời hồng vào trong một bài thơ ngắn đã mở ra một liên tưởng lớn. Nó đòi hỏi một bút lực, biết dồn nén để tạo âm vang. Xa hơn, những hình ảnh đó tiêu biểu cho cực đại và cực tiểu. 

Ở bài thứ hai, “Biển rộng/núi cao” và “bụi cát” cũng chính là hai đầu của cực đại và cực tiểu. Đây là yếu tố nhị nguyên trong cuộc đời này: hữu hạn và vô hạn. Khi thấm được cái hữu hạn của cuộc đời, người ta sẽ sống tử tế hơn với tha nhân. Rất nhiều bài thơ, thi sĩ đã đem ý nghĩa này vào trong cõi thi ca của ông. Phải tinh ý mới nhận ra tư tưởng của nhà thơ đằng sau những vần thơ ngắn nhưng đầy nội lực. 

Hơn thế nữa, có một chữ mà tôi thấy ông dùng rất nhiều lần. Mà đa số đều hay. Đó chữ “ngậm”. Xin chỉ trich dăm câu sau đây.

“tháng tư cỏ ngậm máu tươi

rừng man di vác núi đồi qua sông”

(Tháng Tư, khóa ngữ ngôn câm)


“con chim trên nóc giáo đường

về đây ngậm những hồi chuông tật nguyền”

(Tháng tám rồi đó anh)


“ta con chim hoang đàng

ổ đời khô giọng hót

từ đỉnh sầu chót vót

ngậm khúc tình trăm năm”

(Em như ngọn trầm hương)

Tôi đoán là một lần đâu đó, ông đã dùng chữ này. Và sự mới lạ, rồi thích, nên tiếp tục dùng nó trong suốt chiều dài thơ ông. Chữ “ngậm” này ông dùng rất hay trong nhiều hoàn cảnh. Đặt được chữ này vào nơi đắc địa, nó làm cho bài thơ bay bỗng lên. Rất hiếm gặp ở những thi sĩ khác ở lối dùng chữ này. Có thể xem đây là một cái rất riêng, hay nói một cách khác, đây một “thương hiệu” của Phạm Hồng Ân. Là thi sĩ, ai cũng mong có được một “thương hiệu” cho chính mình. 

Nếu ví đây là đường kiếm, thì đích thị đó là những đường kiếm đẹp, khiến người đối diện và người xem nhớ đời. Trong nhiều bài thơ như thế, tôi rất tâm đắc với chữ này của ông. Nhớ, ngày xưa trong truyện Kim Dung, Lệnh Hồ Xung đã học được chiêu thức có tên “Độc Cô Cửu Kiếm” từ lão tiền bối Phong Thanh Dương. Lệnh Hồ Xung chỉ sử dụng nó trong những tình huống nguy hiểm nhất, chứ không dùng mọi nơi, mọi lúc. Không phải chỉ vì nó là bảo bối, mà nếu sử dụng nhiều, độc chiêu ấy sẽ không còn cái ngạc nhiên đủ hớp hồn người đối diện hay đối thủ. Trong ý nghĩ đó, tôi muốn ông tiết chế điều này trong “thương hiệu” của mình, vì thấy không ít lần, nếu ông sử dụng một đường kiếm khác, kiếm vẫn uy lực như thường. 

Nếu chữ “ngậm” ông dùng đắc địa thì có một số chữ mà ông và bao thi sĩ khác thường dùng trong thơ (và vẫn còn đang dùng). Vì đã dùng quá nhiều nên không còn tạo ra cái rung động mới, chẳng hạn: thiên cổ, ba đào, thập tự, chiều tà, v.v. Tôi vẫn muốn ông “là” chính ông, một Phạm Hồng Ân với chữ nghĩa có chút ngang tàng nhưng đầy nghĩa khí và đậm ân tình, để mỗi bài thơ xuất hiện sẽ làm ray rứt trái tim người đọc. 

Phạm Hồng Ân viết nhiều thể loại. Tuy nhiên, tôi thích cái cổ điển ở lục bát và cái hiển lộng ở thể thơ bảy chữ hoặc tám chữ của ông. Cá nhân tôi không mặn mà với thể loại lục bát được ông cách tân bằng cách ngắt dòng rất nhiều lần, nhiều lượt. Nó không tạo một hiệu ứng tốt hơn cho chính những bài thơ ấy, mà có khi lại làm “mệt” người đọc. Thêm nữa, ở lục bát của ông thời cuối thập niên 1960, 1970, có nhiều bài mang âm hưởng của Huy Cận, của Nguyễn Bính. Tuy vậy, phần lớn những bài thơ sau này, từ khi ra tù, ông đã đi con đường tự chọn bằng tứ thơ nhiều khi kiêu bạc và hình ảnh chắc lọc của riêng mình, của một người lính hải quân đầy mộng mơ mà cũng đầy nghĩa khí ở thuở thanh niên và bằn bặt nỗi nhớ nhà ở những ngày tháng làm một lưu dân.

Thơ Phạm Hồng Ân không bắt người đọc có cái cảm giác của cắt rời Nhật Nguyệt, chia đôi sông núi; không làm ngỡ ngàng người thưởng ngoạn ở những hình ảnh tinh quái, hoặc cái tuôn trào của nham thạch. Thơ của ông đi vào lòng người đọc bằng con đường khác: nhẹ nhàng nhưng âm ỉ; thấm từ từ nhưng đầy thấu hiểu và cảm thông. Thơ được gởi đi từ một trái tim đầy mẩn cảm với đời. Nếu ví thơ như những cơn mưa tắm mát cho đời, thì cõi thơ của Phạm Hồng Ân không có gió mưa giông bão tố, gây nên thác lũ cuồn cuộn, mà là những cơn mưa nhẹ nhưng mãi miết, cho nước từ từ len vào mạch đất, thấm sâu không ngừng nghỉ vào cuộc đời mênh mông, bất tận. 

Ngắn gọn, chiến-đỉnh-thi-ca của người lính hải quân Phạm Hồng Ân trải dài trên năm mươi năm khởi đi từ dòng sông nhỏ, hòa vào sông cái, rồi tăng tốc đi ra biển lớn. Ở đó, trên mỗi khoang đều chứa đựng đầy ắp những ân tình. Nếu xem mỗi bài thơ như một trang kinh, thì chiến-đỉnh-thi-ca của Phạm Hồng Ân chuyên chở những trang kinh thấm đậm tình người dù qua bao dâu bể của cuộc đời, để chứng nghiệm rằng khi đến với đời bằng tấm chân tình thì cái tình đó là mãi mãi bất diệt dù sống bất kỳ nơi đâu trên quả địa cầu này.


Đoàn Nhã Văn

6/2024


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét