Thứ Hai, 2 tháng 12, 2024

Viễn Du Ký Sự - Kỳ 41

Hương Giang- Góc Huế Trong Tôi 
Ký sự của Thanh Hà 

Ngày 15/03/2024

*Mây vương khói chiều, xứ Huế đẹp yêu kiều 
Ngơ ngẩn lòng du khách những chiều mưa
Hương Giang lững lờ, trăng nước vờn đôi bờ
Câu hò vọng xa đưa khúc buồn mơ…

…Huế đẹp ơi, những chiều lơi
Sông Hương nước chảy
Vân Lâu bến đợi chờ
Nghe hò rằng đêm vắng biết về mô
Huế là thơ, Huế là mơ…
(Thương về xứ Huế, nhạc Minh Kỳ)

A/- Buổi sáng trời u ám, mưa lất phất. Chúng tôi chuẩn bị đi Huế. Dự tính chuyến đi sẽ vượt đèo Hải Vân cho các bạn ngắm cảnh, chuyến về đi ngã đường hầm xuyên đèo dài 6,28 km để tiết kiệm thời gian.

Đèo Hải Vân dài 20 km cao 500 m so với mực nước biển cắt ngang dãy Bạch Mã nằm giữa hai tỉnh cách Đà Nẵng 20 km và Thừa Thiên Huế 80 km.

 Đèo còn có tên là Ải Vân (xưa kia trên đèo có một cửa ải), hay là đèo Mây (đỉnh thường có mây bao phủ). Thật vậy, lúc xe vừa ngừng chúng tôi còn thấy một phần thung lũng với rừng cây xa xa. Chưa kịp nhìn ngắm thì đám mây to từ bên phải ùn ùn kéo tới thoáng chốc đã che phủ toàn bộ cảnh vật, chỉ còn một màu sương trắng đục, chẳng thấy núi non hùng vĩ lẫn biển xanh của vịnh Đà Nẵng đâu nữa. Trước khi cách đèo Hải Vân 15 km tưởng được ngắm làng Lăng Cô cạnh bờ vịnh xinh đẹp thì cũng chỉ thấy một màu trắng xoá bao trùm.

 

*Nàng yêu chàng có hồn như biển

Đôi mắt thơ chàng như Ải Vân

   (Dạ Nhạc, thơ Phạm Hầu)

 

*Chiều chiều mây phủ Ải Vân

     Chim kêu ghềnh đá gẫm thân lại buồn (ca dao)

 

*Mây Hải Vân, đùn quanh tháp ngọc, tay ngà

        Chiều tà, chiều tà, nắng đổ bờ vai

Trời buồn mây bay, qua mấy truông bóng nhỏ đường dài

                    (Từ Đó, nhạc Anh Việt Thu)

 

Vào thế kỷ 14 đèo thuộc hai châu Ô, châu Rí của người Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Mân đã đem dâng hai châu nầy làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân con vua Trần Nhân Tông, em gái vua Trần Anh Tông*

 *Xem thế đủ kết luận từ cổ chí kim, từ đông sang tây có hằng bao nhiêu đấng quân vương anh hùng tình nguyện trao cả giang sơn, thậm chí mất luôn mạng sống bởi say mê nụ cười sóng mắt mỹ nhân (các ông hậu thế chưa tởn vẫn sắp hàng nối gót).

 Nhớ lại lần đầu tôi đi với 5 cháu từ Saigon bay đến phi trường Nội Bài, Huế. Từ Huế thuê xe gắn máy vượt đèo Hải Vân qua Đà Nẵng. Xưa hể nhắc tới Hải Vân ai cũng đều e ngại đoạn đèo nổi tiếng nguy hiểm nhiều tai nạn. Dượng hai, chồng của dì em họ Má tôi hồi thời chiến tranh không chết ngoài sa trường mà chết trong chuyến đi quân vụ do hai xe chạy ngược chiều đụng nhau ở khúc cua không tránh được–lúc ấy con đường hẹp chứ không mở rộng như ngày nay–.

 Lần đi với 5 cháu thì đoạn đường đèo có rất nhiều hòn đá to lẫn bé chứ chưa được bằng phẳng, ngay cả chạy vào ban ngày sáng tỏ cũng phải rất cẩn thận. Thế mà vài hôm sau chúng tôi quay trở lại Huế, lúc vượt đèo trời đã tối mịt vì còn mãi rong chơi ghé chỗ nầy một chút chỗ nọ một chút. Nhớ có tắp xuống dưới chân cầu cạnh con sông nho nhỏ. Ai giăng sẵn hai, ba cái võng, thế là sáu dì cháu thay phiên nằm, ngồi; lấy bánh bột lọc, bắp luộc hồi trưa cô bạn Song Hồng đưa mang theo ăn vặt…gió hiu hiu, cây lá chung quanh xào xạc…

 Đèn đường không có, chỉ nương vào ánh sáng tù mù phát ra từ 3 chiếc xe Honda cũ xì cũ xịch chúng tôi thuê. 8g, 9 g tối gần như chẳng còn bất cứ xe nào lang thang trên đường nữa. Thỉnh thoảng qua ánh đèn vàng vọt ẩn hiện nhiều cái miếu nho nhỏ bên vệ đường, thờ những người tử nạn vì lọt đèo, vì lạc tay lái, vì chiến tranh…xen lẫn những hàng cây cành lá im lìm rủ bóng khiến người có tính sợ ma cộng thêm óc tưởng tượng– mà ngộ là ai vốn đã yếu bóng vía thì óc tưởng tượng về ma càng phong phú– nên càng gieo thêm cảm giác kinh dị hãi hùng.

 Mấy đứa cháu tăng ga chạy nhanh như có thể, bánh xe nghiến trên đá nghe lổn nhổn, lạo nhạo. Chỉ cần chút sơ suất cán lên một hòn đá hơi to thôi là xe sẽ lật ngang tức thời, nhất là ở các khúc cua quẹo gắt. Tôi ngồi sau lưng cháu chở mà hồi hộp van vái Phật Bà Quan Âm phù hộ độ trì và các oan hồn đừng bắt chúng tôi thế mạng (nhân gian tin rằng nếu có kẻ thế mạng thì oan hồn mới được siêu thoát hay đầu thai kiếp khác chứ không thì cứ vướng vất ở đó mãi!).

 Giờ ngồi nhớ lại kỷ niệm xưa, tôi không khỏi buồn cười(đang chúm chím cười đây) cho cái sự liều lỉnh của mình–dù là bất đắc dĩ–. Mấy đứa cháu trẻ trung ham chơi không đo lường những bất trắc đã đành, thế mà tôi cũng chìu theo không khuyên vượt đèo cho sớm mới lạ chớ. Thì ra tôi cũng ham vui khác gì*

*Đó là vào đầu năm 2015, bảy năm sau- 2022- lại thêm 2 lần ngồi moto đi trong màn đêm, tuy hoàn cảnh mỗi lần mỗi khác nhưng mức độ hồi hộp, nguy hiểm cũng không kém. Nói theo“ngôn ngữ đường phố” thì tôi đúng là “một bà già gân, bà già chịu chơi” ấy nhỉ ?!🤪.

Các chị em tôi mỗi khi nhắc lại đều lắc đầu chắt lưỡi, các cháu thì cười khoái trá cho ”sự thông đồng” của dì. Tôi dẫn hai câu thơ để biện hộ cho máu phiêu lưu của mình rằng:

Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả

(Nếu phải đường đời bằng phẳng hết)

Anh hùng hào kiệt có hơn ai

(Cụ Đào Trinh Nhất dịch)

Là dịch theo bài thơ chữ Hán: An Mai Quân của cụ Phan Bội Châu:

Giả sử tiền đồ tận di thản

Anh hùng hào kiệt giã dung thường

 Trở lại với đèo Hải Vân lần thứ ba nầy. Trên đỉnh đèo mây giăng che phủ bầu trời lẫn rừng núi, biển cả, nhưng đã trót, chúng tôi yêu cầu tài xế ngừng xe để xuống ngắm… màn mây trắng!! Nhân dịp ghé vào nhà hàng cho các ông uống cà phê nạp năng lượng.

Cố tình vượt đèo mất thời gian mà không được nhìn thấy quang cảnh hùng vĩ trên ngọn đèo lịch sử, thật tiếc.

 B/- Tục thờ ngựa

Xe chạy ngang thành phố Huế. Ngồi trong xe lớn tôi tha hồ ngó nghiêng ngó dọc hay ngước mặt quan sát nhà cửa hai bên mà không sợ té lộn cổ xuống đường như đi moto. Nên khám phá một điều lạ mà mấy lần trước tôi chưa kịp thấy, là hầu như trước sân hoặc trên balcon nhà nào cũng có đặt am hay miếu thờ nho nhỏ-kiểu miếu thờ Ông Địa- ngoài bình hoa, bát hương, nến còn có tượng ngựa. Đa số là ngựa trắng, có nơi ngựa đỏ.

 Tôi tò mò bèn tra tài liệu thì được giải thích như sau:Tục thờ ngựa thần đã có từ lâu ở Thừa Thiên Huế, sau năm 1975 thì phong trào càng phát triển mạnh. Dân Huế quan niệm ở cõi trời, giữa nhân gian và âm phủ các Thánh cũng đều dùng ngựa để đi chầu, hành đạo…nên khi họ đặt am miếu thờ cúng thì phải có thêm ngựa thể hiện lòng thành kính đối với các vị thần (chắc để các vị thần cưỡi).

Ngựa màu đỏ dành thờ “lục vị tôn ông”(?), nghĩa là quan lớn*

Ngựa trắng dành cho các “cậu ngoại càng”, tức quan nhỏ**

***Mấy danh từ này ghi trong tài liệu, tôi chỉ hiểu lơ mơ.

Ngựa thờ làm bằng đá, gỗ hay giấy.

Ngoài ra, đôi khi dân Huế còn thờ ngựa đen là để dâng cho ông thần người Chiêm Thành. Cúng thần Chiêm thì phải thêm khoai nướng, thịt heo quay, xôi đậu đen.

 Ở miền Bắc và Nam có những ngôi đền, đình… thờ ngựa nhưng không phổ thông thờ trong nhà dân như ở Huế.

 C/- Hoàng Thành Huế

Vào thăm Hoàng Cung Huế từ 11g đến 14 g. Lối ra khác với lối vào, mũi tên chỉ đi dọc theo bức tường thành, tưởng cách đó chừng 100 m, ai ngờ cuốc bộ mãi hoài, mãi hoài, mãi hoài…hơn cây số mới thấy cửa ra. Loanh quanh ngần ngừ đứng lại nhìn tới ngó lui nghi bị lạc nên cả tiếng sau mới ra khỏi cổng.

 Lúc vào trong Hoàng thành trời đổ mưa, khi lất phất khi nặng hạt chúng tôi không mang dù phải tìm chỗ đụt, mất nhiều thời gian, nên chúng tôi chỉ ngắm lướt qua vài nơi như:

Ngọ Môn: cổng chính vào Đại Nội

Bốn khẩu thần công chưng bày trong khuôn viên.

Cung Diên Thọ: nơi ở của các Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu.

Điện Cần Chánh: nơi vua giải quyết việc triều chính, tiếp đón, tiệc tùng…

Thái Bình Lâu: nơi vua giải trí đọc sách, làm thơ…

Điện Thái Hoà: nơi thiết triều và các lễ nghi quan trọng*

       *Tôi có kể chi tiết trong Tản Mạn Đời Thường số 22.

 Đặc biệt lần này tôi được thăm điện Kiến Trung (sau mấy năm tái tạo đã mở cửa cho du khách mà hai lần trước tôi không được xem). Cung điện được xây năm 1923 nơi làm việc và sinh hoạt của hai vị vua Khải Định, Bảo Đại. Năm 1947 cung điện trở thành phế tích, chỉ còn nền móng phủ cỏ xanh.

Là cung điện đẹp nhất trong Hoàng thành, được nhiều du khách viếng nhất hiện nay. Tôi thấy khá nhiều phụ nữ mặc y phục theo lối cổ của các mệnh phụ, công chúa..vào điện làm dáng chụp hình (cửa hàng cho thuê y phục cùng phụ kiện như mấn, vòng cổ, quạt, giầy.. cổ xưa, trong đó có 1 tiệm ngay sát Đại Nội).

 Cung điện xây theo phong cách kết hợp các kiến trúc Âu, Á gồm: Pháp, thời phục hưng Ý và truyền thống Việt Nam. Hình thể bên ngoài được tô điểm các chi tiết hoa văn, hoạ tiết tinh xảo theo kiểu cung đình Việt Nam nhưng bên trong thấy vài gian phòng có cách bày trí bàn ghế, tủ kính chưng bộ đồ ăn ly, bình đựng rượu, trần nhà, đèn, thảm, cầu thang…giống các lâu đài bên châu Âu thu hẹp, như cung điện Versaille (Pháp), lâu đài Schonbrunn(Áo).Tất nhiên là ít lộng lẫy, tinh xảo bằng (đây là thiển ý của tôi).

 Trong 1 gian phòng chưng bày kiệu vua với trướng lộng màn che, 1 phòng khác có giày, áo của hai vua Khải Định, Bảo Đại…

 D/-Hương Giang–Thiên Mụ

Mỗi lần trở lại Huế, có một nơi tôi đặc biệt muốn đến là chùa Thiên Mụ, tuổi đời hơn 400 năm nằm trên đồi Hà Khê cách trung tâm thành phố 5 km.

Lý do thầm kín bởi tôi muốn thăm lại giòng sông Hương từ vị trí ngôi chùa dọc tả ngạn. Theo các bậc thang lên khuôn viên, tôi nhanh bước rẽ qua góc phải, nơi có tàng cây phượng vĩ nghiêng cành. Từ đó tôi sẽ tha hồ ngắm nhìn giòng sông êm đềm trầm mặc uốn lượn ở khúc quanh trước mặt, xa xa núi Ngự mờ ảo hoà quyện vào nền trời bàng bạc mây, vài chiếc thuyền con nhẹ khua mái chèo vạch ra vài lượn sóng lăn tăn dịu dàng như nàng thiếu nữ thẹn thùng nằm xoã tóc đợi người yêu.

 Tôi “xí phần”–tự nhận đó là một góc Huế của riêng tôi.

                         Ai ra xứ Huế thì ra

        Ai về là về núi Ngự, ai về là về sông Hương

          Nước sông Hương còn thương chưa cạn

                    Chim núi Ngự tìm bạn bay về…

            (Ai Ra Xứ Huế, nhạc&lời Duy Khánh)

 

        * Người về chưa ghé sông Hương

    Đã nghe tiếng gọi đôi đường đắng cay

    (Trường ca Con đường Cái quan, nhạc Phạm Duy)

 Trong ba giòng sông huyết mạch của Việt Nam: Hồng Hà, Hương Giang, Cửu Long Giang. Tôi yêu mến sông Hương nhất.

Tôi thích đứng từ góc phải của chùa Thiên Mụ để chiêm ngưỡng vẻ mơ màng của giòng sông. Chỉ từ nơi tương đối vắng người đó–du khách đến chụp vài kiểu ảnh rồi nhanh chóng rời sang cảnh khác – giòng sông mới mang cho tôi cảm giác bình an thanh tịnh, chứ không phải từ một nơi có quá nhiều người và xe cộ qua lại đông đúc.

Chả là từ thời niên thiếu tôi đã gắn bó với sông nước. Phía sau ngôi nhà của chúng tôi là sông Rạch Sỏi (hay kinh Rạch Sỏi). Khởi thuỷ là con kinh đào còn có tên Cái Sắn bắt nguồn từ sông Hậu chạy qua tỉnh An Giang, Cần Thơ đến tỉnh Kiên Giang đổ ra vịnh Thái Lan.

Thời tôi khoảng 7 hay 8 tuổi xóm thưa dân, mọi người đều hoặc họ hàng hoặc quen biết nhau hết tính từ Ngã Ba Rạch Sỏi đến khỏi dốc Cầu Cống lẫn bên kia sông (lác đác chỉ vài mái nhà lá). Nước sông tương đối sạch chưa bị ô nhiễm, mùa mưa người ta uống nước hứng từ trời và để dành trong lu uống quanh năm, mùa nắng xài nước sông cho việc giặt giũ, tắm rửa.

Mấy chị em tôi từng nhiều lần lén Má nhảy xuống sông lặn ngụp đùa giỡn dù bị cấm không được xuống nước-vì sợ sóng cuốn-

Cho tới một ngày tôi bị đĩa đeo vào bắp đùi, sợ khóc la dẫy giụa kinh động cả hai nhà bên cạnh. Má cứu nguy cố gỡ ra được đầu này thì nó bám chặt lại đầu kia mấy lần mới thành công. Thế là từ đó cạch, cho kẹo chúng tôi cũng không dám lén xuống sông tắm nữa.

Đến khoảng 15,16 tuổi, cách vài tháng một lần khi nhà hết gạo nhằm lúc không phải vào lớp, tôi theo Bà Ngoại chở hơn chục giạ lúa trên chiếc xuồng ba lá xuôi theo giòng Rạch Sỏi vào Cầu Quằng nơi có nhà máy xay gạo. Bà Ngoại ngồi sau cầm chèo giữ lái cho chiếc xuồng thăng bằng trôi băng băng, tôi ngồi phía mũi cũng khua chèo chọc nước cho có lệ. Mắt lo nhìn lên bờ ngắm những trái mù u, trái bình bát, những bụi hoa dại màu trắng tím xinh đẹp, những con bướm màu sắc hoặc bướm vàng nhởn nhơ đùa vui bên hoa mà thả hồn vào cõi mộng thần tiên nào đó.

Con sông tuỳ mùa, có lúc hiền hoà phẳng lặng đục màu phù sa, có lúc hung hăng ngập tràn bờ mang những cụm lục bình rác rến, xác xúc vật nổi lềnh bềnh dữ tợn xấu xí.

Dù sông quê tôi có cái tên chân chất mộc mạc nhưng chứa cả một quãng đời niên thiếu với bao kỷ niệm thân yêu.

D/- Ghềnh đá rêu Nam Ô, núi Ngũ Hành Sơn

Sáng hôm sau chúng tôi đi Ghềnh Đá rêu Nam Ô, quận Liên Chiểu, nơi đặc biệt vào mùa xuân lớp rêu có màu xanh thẳm phủ dày lên các phiến đá dưới bãi chỉ kéo dài độ 1tháng, sau đó rêu sẽ ít dần và sắc xanh cũng bớt thắm tươi.

 Buổi chiều chúng tôi rồng rắn xếp hàng trước lối vào thang máy, chờ hơn 30’ mới đến lượt được đưa lên núi Ngũ Hành Sơn nơi có ngọn núi Thuỷ Sơn, chùa Tam Thai, chùa Linh Ứng (hay chùa Non Nước), động Huyền Không, động Âm Phủ…Người đông vô số. Mấy năm trước có lối mòn lên núi tự do, nay đã bị bít lại, bắt buộc mọi người phải mua vé dùng thang máy.

Trước khi đến khu Ngũ Hành Sơn theo đoạn đường gọi là Làng Đá Non Nước, họ kinh doanh chưng bày các bức tượng điêu khắc bằng đá màu trắng vô cùng tinh xảo, tỉ mỉ đủ các kích cỡ: Tượng Phật, Chúa, Đức Mẹ Đồng Trinh, động vật…

Nhiều xe bus chở từng đoàn du khách vào viếng núi Ngũ Hành Sơn: Việt, Đại Hàn, Tây Phương... Nhưng Làng Đá không có khách lai vãng, nhiều chủ hàng dọn không gian làm chỗ giữ xe hai bánh kiếm thêm thu nhập.          

Dọc lối vào cổng du lịch cũng vậy, các gian hàng bán đồ lưu niệm, món ăn đặc sản, nước giải khát… lơ thơ khách mặc cho chủ í ới gọi mời. Bởi du khách đi theo đoàn có hướng dẫn viên, chương trình được thu xếp tính toán xít xao chẳng còn thời giờ cho việc dạo quanh mua sắm nữa. Tôi thấy hầu như mọi địa điểm du ngoạn đều chịu chung cảnh ngộ- nghĩa là người mua thì hiếm, người bán thì ngồi… ngáp ruồi!*

*Nhân nhắc chuyện “ngáp ruồi”, nhớ lần trước chúng tôi có ghé 1 trong các hàng quán dọc theo đường lên chùa Thiên Mụ ăn tàu hủ nước đường. Trời tắt nắng không gian bên trong quán mờ mờ ảo ảo. Bà chủ cho tàu hủ vào trong cái chén xinh xinh, kế mở nắp múc nước đường nấu sẵn trong cái hủ to đặt bên cạnh. Thoạt đầu tôi bận…ăn không quan tâm chú ý gì, bỗng mấy (6,7) con ong hay ruồi bự chi đó vo ve chung quanh, ngó dáo dác tìm xem chúng từ đâu đến. Mới thấy chúng từ trong cái hủ thuỷ tinh đựng nước đường bay túa ra, vẫn còn vài con nằm bất động bên trong hủ, chắc no đường nên lăn ra chết a.

 Aaaaaa tàu hủ đã chui xuống thực quản tôi một ít rồi!

Ngưng ăn, quay qua nói với cô cháu.Tôi nói nhỏ mà không hiểu sao bà chủ nghe được (chắc do ngồi khá gần), bà lấy cây quạt giấy quơ đuổi mấy con ong, vừa “trấn an”, giọng tỉnh rụi:

—Can chi mô, mở nắp là nó bay hết rồi. Còn mấy con chết để chị gắp nó ra hỉ.

Chúng tôi cười giả lả, kêu tính tiền rồi vọt lẹ.

   E/-Chúng tôi rất hài lòng với kỳ nghỉ, các bạn hứa sẽ thu xếp về Việt Nam cùng thời gian với tôi để đi du lịch chung nữa. Cám ơn sự đón tiếp chu đáo với tình cảm nồng ấm của Pháp và Song Hồng thật nhiều là nhiều.

Phần các cháu vẫn giữ lời hứa sẽ tiếp tục chở tôi đi viếng vùng Tây nguyên Trung Phần vào chuyến về quê lần tới, để hoàn tất chương trình viễn du vòng quanh nước Việt – nhất định phải trên con-ngựa-sắt moto– mới thoả nguyện !!!


Thanh Hà

LCDF 26/11/2024     


                              

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét