Thứ Hai, 23 tháng 6, 2025

BÌNH LUẬN CỦA BẠN ĐỌC FACEBOOK VỀ BÀI THƠ QUÊ NGHÈO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 (Cập nhật từ nick facebook của Đặng Xuân Xuyến) 



QUÊ NGHÈO

Quê tôi nghèo lắm
Tg Đặng Xuân Xuyến
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.

Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.

Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.

Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...

*.

Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

Tạ Văn Hoành:

Chỉ biết thưởng một bài thơ hay trong cách dùng con chữ lạ lẫm không khuôn phép.

Lão đốc thấy hay khi mà cái thể thơ tự do này Lão chưa bao giờ thích..!

 

Nguyễn Hòa Bình:

Bài thơ như một bức tranh tả cảnh thực đến không ngờ, quê nghèo đến độ chợ lèo tèo, ế kẻ mua, nhưng lại càng nghèo khi cái cổng làng sừng sững mọc lên,“ngạo nghễ tượng đài, ngạo nghễ trần ai”. Đọc thấy nao lòng.

 

Trần Đình Thư:

"Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ"

Chỉ mỗi một câu này cũng đủ nói lên cảnh "quê nghèo" rồi. Câu thơ thật độc đáo và sáng tạo.

Quê Nghèo và Bạn Quan đủ làm cho Đặng Xuân Xuyến thành danh trong làng thơ Việt Nam.

 

Vũ Thị Hương Mai:

Về bài thơ Quê Nghèo anh Đặng Xuân Xuyến viết: "Tiếng oan khiên từ THỜI Giáo Thứ" nên không sai. Nếu anh Xuyến viết: "CỦA Giáo Thứ" thì mới sai.

Có thể bác Nguyễn Bàng không để ý kỹ nên mới góp ý như thế nhưng đó là góp ý xuất phát từ tấm lòng quý mến tác giả bài thơ, từ sự tử tế của bác ấy. Cháu nghĩ chú Phạm Đức Nhì đã hiểu rất sai về bác Nguyễn Bàng

 

Đoàn Chính Vương:

Thật sự là em suýt bật khóc khi đọc những câu thơ:

“Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Thương con cò con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.”

Rất khái quát đời sống khốn cùng của người dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Mấy câu: “Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc”, “Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình” đau xót và ám ảnh quá

 

Vi Lanh:

Nghèo đến mức chua xót vậy sao? Vậy mà cổng làng lại sừng sững... Còn nữa ngạo nghễ tượng đài... Vậy mà đổi lập với cái ngạo nghễ, sừng sững kia là nước mắt rơi từ thời chị Dậu và tiếng oan khiên từ thời giáo thứ vẫn âm ỉ bủa quanh và đeo bám đặc quánh...

Đọc bài thơ mà thấy nhói ở trong tim...

Thương lắm quê nghèo ơi!

 

Mon Sieur Khét:

“Chiếc cổng làng giam hãm”

“Quê tôi nghèo, nghèo cả giấc mơ...”

Ám ảnh quá...

 

Van Tuy Chu:

Bài thơ như tả thực và lời kêu của cái nghèo mà bao đời chưa dứt. Ôi người viết đã rời quê lên thành phố mà nhà thì từ xưa cũng chẳng phải diện nghèo thế mà viết rất mang tính hiện thực. Hay

 

Tang Pham:

Làm thơ mà không có người bình thơ thì chỉ có bán giấy cân.

Thật sự bài thơ Quê Nghèo của anh quá hay. Bài thơ mộc mạc, thực tế, gần gúi với đời thường của một làng quê nghèo. Đọc xong em hình dung quê em ngày xưa cũng giống thế. Hay, sâu sắc và ý nghĩa hơn nữa là lời bình từng câu, từng đoạn thơ của chị Vũ Thị Hương Mai.

Cám ơn Anh và chị Vũ Thị Hương Mai đã đưa em về thăm quê bằng những câu thơ.

 

Vũ Thị Hương Mai:

Mỗi người có một cách cảm nhận thơ văn khác nhau nhưng cháu vẫn thích cách bình thơ của bác Bùi Đồng dù bác ấy không bàn về thi pháp nhưng lại phát hiện ra nghệ thuật dùng câu chữ độc đáo, tài tình của tác giả và bình cũng rất thấu đáo. Bác ấy không lên giọng dạy đời, cũng không bốc thơm tác giả mà chỉ viết ra những cảm nhận của mình nên lời bình chân thực, hấp dẫn người đọc. Đoạn bác Bùi Đồng bình về bài thơ Quê Nghèo này cháu đặc biệt là rất thích:

"Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu ...

Đọc hai câu thơ này giống như vế đối, lặp từ ĐỜI càng làm nặng thêm cái vất vả của bậc sinh thành. Tác giả có thể thay: cha suốt ngày lam lũ ... để tránh lặp từ nhưng may quá tác giả đã không làm như vậy! Đọc đến đây làm chúng con thấy chua xót mà cũng lăn tăn về trách nhiệm của mình nhưng có ngờ đâu đó là định mệnh mà xã hội làm chưa trọn!

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ ...

Trời ạ, khi đói chả ai ngủ được, họ nằm trằn trọc, ước ao có được củ khoai, miếng sắn để quên đi bụng réo cồn cào... một lối tư duy rất thơ mà rất thực, cái đói cứ len vào giấc ngủ mà không làm gì được vì biết chắc chắn nhà mình chẳng còn gì cả, càng cố quên đi nó càng luồn lách, len lỏi vào tận... dạ dày! Chả còn gì để mà tự an ủi nữa, đến: Cánh cò (còn phải) bấu bíu lời ru!

Câu thơ đến đây làm nghẹn lòng người đọc, thương cho cánh cò rồi lại thương cái quê nghèo, thương cái thân phận của mình.

Có người nói: muốn biết vùng ấy thế nào thì nhìn vào chợ. Thì đây: phiên chợ èo uột,

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua.

Ế bán

Chán mua

Lại một lần nữa cách diễn tả như vế đối, cô đọng hết cỡ, ngữ điệu dân gian... làm ta nghe phảng phất nhớ cụ Nguyễn Khuyến - Tú Xương. Thành công của bài thơ nằm ở đây. Tài thật, tôi biết đây là ngẫu hứng, tưởng tượng thôi nhưng thật tuyệt vì tác giả đã hòa hồn vào Quê Nghèo mới tinh chiết ra được như vậy."

 

Ngọc Trâm:

Quê Nghèo hay quá anh ơi! Viết rất mới, rất hiện đại, phá bỏ mọi luật lệ của thi ca mà gây được ám ảnh ghê gớm với bạn đọc. Ôi hình tượng cái cổng làng sâu sắc và tuyệt quá anh ạ.

 

Làng Dương Liễu:

 Bác thích đọc thơ của chú vì thơ chú viết bằng cảm xúc thật, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc mà rất độc đáo. Bác không thích đọc thơ của các tác giả làm thơ theo lối cách tân, hậu hiện đại, đọc không có hồn vì cảm xúc vay mượn giả tạo, không có được những cảm xúc như khi đọc các bài thơ Quê nghèo, Bạn quan, Tôi nghe… của chú.

 

CảnhThư Sg:

Nguyễn Tuân đã để lại cho đời câu nói trứ danh: "Bao giờ tao chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình". Những thằng phê bình thơ chưa bị chôn tỏ ra đây ta có nhiều lý luận thường vơ cào vơ cấu mấy thuật ngữ mòn vẹt cộng với những mớ lý luận sặc mùi sách vở và giáo điều chẳng hạn như cái Thi pháp được đề cao trong bài này để rồi phán bài thơ này không có ưu điểm về thư pháp, bài bình này không bàn thư pháp...

Thử hỏi nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, khi ông viết Quê nghèo, ông có nghĩ đến thư pháp, có tính trước phải viết bao nhiêu khổ, bao nhiêu câu, sẽ gieo những vần gì, sẽ dùng các biện pháp tu từ gì...không? Hay là một hôm nào đó ông chợt cảm thấy có xúc cảm trước một điều gì đó rồi đâm nhớ tới quê mình, thấy quê mình nghèo quá nên ông bật ra những tiếng lòng ấy!

Thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, các cụ làm gì có sách Thi pháp, có phải không nhà thơ Đặng Xuân Xuyến?! Các cụ làm thơ hay trong đó yếu tố Trời cho là số một.

Ở một cường quốc thơ như Việt Nam ngày nay, có người đọc thơ cho là may rồi. Mà người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi! Nay bài thơ Quê Nghèo có tới 3 người bình, thiết tưởng thế là rất đáng mừng cho nhà thơ và cho bài thơ rồi.

Tôi chỉ sợ, làm thơ xong, nhà thơ đưa cho vợ sẽ bị con vợ nó “dí l... vào thơ”

Và một ngày nào đó nhà phê bình bàn về thi pháp với vợ sẽ bị con vợ nó bảo: “Thi pháp cái l...”

 

Vũ Thị Hương Mai:

Em bật cười khi đọc những lời bình của chú Phạm Đức Nhì:

“Thí dụ bài Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến, tác giả đã có mấy câu nói về “Lũ trẻ” trong làng:

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Và “Lũ Trai”:

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Còn “lũ con gái” thì sao? Đặng Xuân Xuyến đã quên nên để độc giả vừa đọc vừa mỏi cổ ngóng chờ. Đây cũng là một chỗ sai phạm.”

Nếu làm như chú Phạm Đức Nhì thì không còn là thơ nữa mà là bài báo cáo tổng kết các thành phần trong thôn xóm

 

Trần Thị Thanh Vân:

Ngùi ngùi thương cảm cuộc sống của người dân thôn quê.

Bài thơ rất hay.

 

Duy Chuẩn Nguyễn:

Điệp khúc Quê tôi nghèo lắm cứ lặp lại như muốn tự sự về cái Nghèo. Nhưng nghèo không phải quê tôi không có gì. Có đủ điều, tuy lèo tèo, nho nhỏ, tuy xác xơ, tiêu điều một chút nhưng nặng tình cha nghĩa mẹ, xóm giềng tối lửa tắt đèn. Đọc bài thơ nhớ cái nghèo mà dưng dưng. Tuy không muốn quay lại nữa nhưng nó là một phần kỷ niệm làm giàu tâm hồn mình.

 

Lê Liên:

Chị yêu những tứ thơ mộc mạc. Phản ảnh hiện thực khách quan cuộc sống của em.

 

Bình Yên:

Đọc bài thơ mà thấu tận tâm can.

Tâm đắc nhất khổ thơ cuối.

Cảm ơn em Đặng Xuân Xuyến đã cho mọi người thưởng thức một tác phẩm tuyệt vời.

 

Trần Lai:

Hay và rất dân gian. Ngôn ngữ phong cách dân gian.

 

Ninh Phan Đạt:

Tôi cũng không thích những câu thơ này: “Chiếc cổng làng thành tai hại - Giam hãm đời người - Tù túng giấc mơ.”

Không ổn chút nào.

 

Hải Đặng:

Tôi thích câu thơ này: “Chiếc cổng làng thành tai hại - Giam hãm đời người - Tù túng giấc mơ.”

Rất nhiều hình tượng, thơ hiểu theo nghĩa "bóng".....

 

Lê Hải:

Hay và độc đáo lắm!

Hình tượng cái cổng làng trong bài thơ còn là hình ảnh những tượng đài, những cổng chào... đang được ồ ạt xây dụng trên khắp đất nước đã tàn phá đất nước làm tù túng cuộc sống của người dân. 2 câu kết “Quê tôi nghèo / Nghèo cả giấc mơ…” có sức ám ảnh lớn.

 

Duy Chuẩn Nguyễn:

Đúng nhà thơ ạ! Muốn có ước mơ phải ngay đầu tiên phá cái cổng làng.

Bây giờ, sau thời kỳ phá cổng lại đua nhau xây cổng, vừa tốn tiền của, vừa vướng víu, vừa ngăn cản ước mơ.

 

Minh Tân:

Bài thơ viết rất thoáng ''nhất khí quán hạ'' tuy không vần mà ''ý liền ý, mạch liền mạch khiến người ta phải đọc một hơi cho cạn bài

Bài thơ nhẹ nhàng như 1 clip tua nhanh gửi sau câu chữ những ý tưởng hóm hỉnh:

- Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Sừng sững bê tông....?

 

Lê Đức Nghinh:

Quê tôi nghèo, vẫn lác đác nhà tranh.

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát....

Phiên chợ còn èo ẹt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau thơm....

Hay lắm

Nhưng như thế thì quả là nghèo thật rùi chú ạ

 

Bui Dong:

Bài này nghe vào lắm! Sâu và hay nhưng chả lẽ quê mình nghèo đến thế?

Câu hỏi bung ra sau khi đọc hết bài thơ nhưng chả có ai trả lời cả ... Hỏi tre, tre bần thần rũ tóc - Hỏi cò, cò mải lặn lội đầu mom - Hỏi sông, sông oằn mình giữ cát.... Hỏi người, người lầm lũi bước đi. Hỏi trưởng thôn, trưởng thôn trả lời: Mày muốn vào tù vì chống lại người thi hành luật pháp à.....

Đành quay ra tán phét dưới gốc đa cùng giáo Thứ, chị Dậu, anh Pha nhưng Bá Kiến cứ lảng vảng, nghe trộm!

 

Nhi Pham:

Cả 3 bài đều hay. Quê Nghèo thì tôi đã có dịp đề cập tới nhiều lần. Hai bài Bạn Quan và Tôi Nghe lần này sắc nước và hoàn chỉnh hơn. Hình thức thơ mới lạ nhưng giọng thơ rất tự tin. Cả 2 đoạn kết đều “ấn tượng”. Tác giả đã nói được điều muốn nói một cách sinh động và đầy tính thuyết phục.

Bài Bạn Quan còn mấy chỗ chưa rạch ròi giữa câu nói trực tiếp và câu kể - sửa lại cũng dễ dàng. Bài Tôi Nghe thật và bạo.

Tôi chỉ muốn chạm đến chút tài thơ của Đặng Xuân Xuyến, không muốn bàn chuyện chính trị.

 

Khánh Ngọc:

Cái nghèo trong thơ của Đặng Đặng Xuân Xuyến nó thấm đẫm trong từng câu, từng chữ; cách ngắt nhịp cũng khiến cho người đọc cảm nhận được từng tiếng thở dài của người dân quê ta lúc bấy giờ.

 

Song Thu:

Bài thơ viết theo phong cách tự sự rất hay. Tác giả đã nhìn được cái mà mọi người không nhìn thấy và đã nói lên một cách rất thực...

 

Trần Quang Phóng:

Quê nghèo nghèo cả giấc mơ

Vần thơ sung sức vươn tầm vang xa

Thơ hay giọng đọc truyền cảm lạ thương đã hay lại càng hay

 

Minh Trang Tran:

Quê nghèo, thì... cứ việc nghèo

Tượng đài ngạo nghễ... có đèo bòng đâu.

Cổng làng đẹp... dân làng giàu

Câu ca muôn nỗi... giết nhau... lấy quà!

Thơ anh đầy nỗi xót xa

Ai? ... thương thân phận dân ta mãi nghèo...

 

Thái Chung:

Cái nghèo của làng quê mà chỉ lứa tuổi trung niên trở về trước mới nếm trải nay được nhà thơ khắc họa lại sao mà mộc mạc, chân tình, gần gũi pha lẫn chút xót xa, niềm nỗi đầy uẩn khúc đến như thế!

Tôi yêu và thấm thía cái nghèo đó, một sự nghèo đã trôi vào dĩ vãng của một thời trăn trở.

Cảm ơn nhà thơ đã cho tôi trở lại xóm nghèo xưa đáng nhớ!

 

Phạm Thành:

Cả bài thơ của bạn đã phản ánh cái khó nghèo của quê rất chua chát cuộc người.

Theo mình không cần cái câu "Quê tôi nghèo lắm" lặp lại cả bốn khổ thấy thừa lời than vãn. Chỉ những hình ảnh, tâm trạng bạn thể hiện là quá đủ cái nghèo rồi. Chỉ nên để ở khổ kết "Quê tôi nghèo" như một khẳng định cuối cùng thì gọn mà có điểm nhấn đậm sâu.

     

Trần Huỳnh:

Bài thơ hay lắm!

"Quê tôi nghèo

nghèo cả giấc mơ"

Kết hay quá! Đúng là nghèo mãi, mơ mãi không thành nên cạn cả giấc mơ!

 

Thuyet Hoàng:

Cái nghèo bám mãi quê xưa

Bữa ăn chẳng có mây mưa đói lòng

Từ thời chị Dậu long đong

Đến thời giáo Thứ chẳng mong thoát nghèo

Quê xưa đói khổ gieo neo

Nghĩ lại xa xót miền thương tội tình

 

Bài thơ bạn viết rất hay

Đọc rồi lại thấy lắt lay cõi lòng

 

Thao Hieu:

Anh trai! Em là người miền Tây phương Nam, em ở 1 huyện nhỏ cùa Cần Thơ. Nơi em đang ở không có cổng làng, không có tượng đài...

Đọc bài thơ “Quê Nghèo” của anh, em như thấy 1 làng quê nghèo Bắc Bộ hiện ra trước mắt mình. Em đồng cảm và xót xa cùng những bức xúc trong lòng của 1 người dân quê giống như anh, bởi quê em cũng nghèo... vậy mà 1 khu tưởng niệm cho 1 soạn giả cải lương được dựng lên rất bề thế, hoành tráng, rộng lớn hàng chục hec-ta đất cùng với đó là hàng chục tỷ đồng (vẫn biết ông có công lớn góp phần vào nền nghệ thuật cải lương Nam Bộ và để đời những vở tuồng đặc sắc... rất đáng được vinh danh... nhưng xây dựng khu tưởng niệm có thật sự là việc làm cấp bách hay không? khi cuộc sống dân quê còn quá bấp bênh, kinh tế eo hẹp, trẻ em mồ côi, người già cơ nhỡ rất nhiều...). Và đâu đó ở những vùng quê nghèo, vùng sâu, vùng xa của miền Tây Nam Bộ cũng xảy ra thực trạng giống như ờ làng quê của anh vậy... Ôi.. nghĩ mà ngán ngẫm cho việc làm của "các quan" anh nhỉ!..

Ta không thể cản ngăn, vì chính bản thân ta cũng mong muốn làng quê trở mình thay đổi và phát triển, nhưng an sinh của người dân còn quá đói khổ, thiếu thốn thì thử hỏi những "tượng đài hiên ngang ngạo nghễ, chiếc cổng làng to đẹp uy nghiêm sừng sững bê tông cốt thép" hàng trăm tỷ đồng kia có mang lại sự no ấm hãnh diện cho người dân quê không? hay đây chỉ là thói đua đòi học làm sang, muốn phô trương chạy theo thành tích của các quan sở tại? những công trình ấy thật sự rất đẹp và khang trang nhưng nó quá đối lập và kệch cỡm với 1 vùng quê "lác đác nhà tranh" với những "phiên chợ còn èo ợt, dăm ba nải chuối, vài mớ rau tươi, mẹt sắn, mẹt ngô... lèo tèo dăm người bán, lẻ tẻ mấy người mua" thì thử hỏi những công trình kia có thật sự cần thiết thực thi cấp bách hay không? nếu không muốn nói là phí phạm trong khi người dân quê cái mặc chưa ấm, cái ăn chưa no "khoai sắn len vào giấc ngủ" cái đói khát khiến "lũ trẻ gầy như con cá mắm, lũ trai mặt mũi mốc meo, con cò con vạc mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình" dù rằng người dân quê rất cần cù, "lam lũ" luôn dành dụm "chắt chiu" những gì làm ra, nhưng cái nghèo khó vẫn "bám đeo đặc quánh" phải chăng do họ bị giam hãm, tù túng trong 1 phạm vi nhất định không được hội nhập với thế giới ngoài kia nên không thể thực hiện được những ước mơ, cũng như sự nghiệp để phát triển, để đổi đời, đổi vận của mình?

Thiết nghĩ "các quan lớn" và những ngài đứng đầu thôn làng khi ra quyết định xây dựng những công trình liệu họ có đi khảo sát cuộc sống người dân không? có trưng cầu ý kiến của người dân hay không? hay chỉ nghe báo cáo khống của cấp dưới xu nịnh, tham ô.... hay do là "quan to" quyền cao chức trọng, 1 tay che trời, ăn trên ngồi trước, sống trong ấm êm, mưa không tới mặt, nắng không tới đầu nên "quan" không nhìn thấy nỗi khốn cùng của dân nghèo hay "quan" cho rằng người quê dân trí thấp nên luôn tự quyết định theo suy tính của quan mà không cần thảo luận ý kiến người dân.?

Thật lòng nói ra thì ngại, không nói thì ấm ức vì quá chán ngán nhiều việc làm của "các quan" bởi phận là những dân nghèo nên đành câm nín... nhưng sâu tận đáy lòng luôn nghĩ: Dù thời cuộc nào, dù là "Quan To"... dẫu có đưa tay che mặt khi nhìn xuống, thì cũng đừng nghĩ là "Sông" bất biến. "Nước" vẫn xanh, những rì rào cũng vẫn không thôi ra "Biển". "Sông" nhìn thấy tất cả mà vẫn dìu đi trong nhẫn nại, bao dung, bởi tha thứ luôn là phẩm chất của những tâm hồn trác tuyệt. Nhưng để có được phút giây thái hòa, thì không thể không lội xuống để biết nóng, lạnh từ đáy sâu, rồi từ đó mà sọi lại mình, nương theo "Nước" mà đi, Khúc hoan ca sẽ hiển lộ, độc tố sẽ được tẩy trừ. Lúc đó hoa trái sẽ thêm hương, "Đất" lành trở dạ, thiên hạ thái bình. "Đạo Trời" đó cũng là đạo của Người cầm cương trị quốc, chỉ một lẽ "yên dân", người người ấm no, hạnh phúc..

Nhưng buồn và tiếc thay chẳng có được mấy Quan chịu lội xuống đề nghe "tiếng nói người dân" anh trai nhỉ!..

* Bài thơ hay lắm ạ.

Mến chúc anh buổi chiều an vui.

(Nguyễn Thị Xuân Thảo - Thao Hieu)

 

Thanh Lê:

Bài thơ hay... cảnh nghèo hiện hữu (cái cổng làng...!!! Thơm mùi khoai, sắn...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét