Trầm Vũ Phương
Từ Thái Lan Cao ủy tỵ nạn thuê một chiếc tàu đưa chúng tôi đến đảo Galang thuộc Nam Dương. Cũng lại đi bằng tàu, làm sao quên được cái cảm giác bềnh bồng có khi vật vã trên đường vượt biển. Tôi thấy đại tá Nguyễn Địch Hải luôn tìm một chổ ngồi gần mũi tàu nhìn mông lung suy tưởng. Vùng trời nào cho ta nương náo?, miền đất nào đón kẻ sa cơ? Tàu đi cũng mất hai ngày tới Galang trong tiết trời oi bức, nắng cháy da. Nam Dương gồm nhiều quần đảo kết hợp nên, người ta ví đất nước này là những viên ngọc rãi quanh xích đạo. Trại Galang 1 đầy rồi, chúng tôi được chuyển vào Galang 2, trại này mới xây xong, tất cả còn mới. Trên đường tôi nhớ có đi ngang qua một khu sinh hoạt của hướng đạo, họ làm một cái cổng chào bằng tre có hàng chữ tiếng Anh” Gate of Freedom and Humanity “ (Cổng của Tự Do và Tình Người). Bầu trời tự do đang ở trước mặt, tình người giang tay nâng đỡ chúng tôi.
Vai mang tay xách bước từng bước lên các bậc thang, nơi đây cảnh vật giống miền núi, đất thì đỏ, rừng cây xanh biếc, từng dãy barrack mọc lên dọc theo triền đồi. Buổi sáng ngày hôm sau nghe có người thấy vài con heo rừng lãng vãng. Ổn định xong việc ăn ở, cái chính là học Anh ngữ, thường sau giờ học cả đám rũ nhau lần theo đường mòn về hướng biển đến một nơi có luồng nước từ biển chảy vào để bắt cá, còn những người khác thì đi ngược sâu vô bên trong đảo để tìm phong lan với ráng bay. Bây giờ nhắc lại tôi vẫn còn mê những giò lan, những chậu ráng(dương sĩ) được bàn tay nghệ sĩ treo từ trên bao lơn chiếm hết mặt tiền của barrack trông rất mỹ thuật. Buổi tối nằm trong barrack nghe Như Mai (lúc đó cũng ở chung trại) ca bản Thuyền Viễn Xứ mà thấy buồn mênh mông.
Muốn đi Galang 1 thì có thể đi bộ hay quá giang xe Cao ủy, nhiều người đi thăm bạn bè, đi chùa hay nhà thờ còn tôi thì đi tìm tòa soạn báo Tự Do. Đây là tờ báo của người Việt làm theo kiểu quay roneo mục đích là để thông tin liên lạc. Tôi có gởi vài bài thơ và tòa soạn nhắn tôi đến để nhận báo biếu. Tôi giữ tờ báo làm kỹ niệm nhưng khi chuyển qua Singapore thì mất làm tôi tiếc hùi hụi. Trong dịp này tôi được biết bác Danh, ai ở Galang 1 đều rõ bác là người vận động xây cất ngôi chùa Phật ở đó.Việc gì cũng có cơ duyên, một số phật tử ở Galang 2 ủng hộ tâm nguyện của bác là tìm một nơi để dựng chùa, giải quyết nhu cầu tín ngưỡng cho đồng hương tỵ nạn. Có người nói bác đi đến đâu là dựng chùa đến đó, cũng không sai.
Bác vô Galang 2 cất chùa thật. Lần đầu tiên tôi lên thăm thì về cơ bản đã hoàn tất, ngôi nhà sau này gọi là chùa nằm trên khoảng đất lưng chừng đồi, lợp lá, rộng bề ngang, cây cảnh xung quanh cũng còn nhưng không tịch mịch như trước. Từ đây phóng tầm mắt ra ngoài xa người ta có thể thấy một vùng biển trời của Nam Dương. Để lên tới đây mọi người phải chầm chậm đi theo một con đường thoai thoải quanh co hai bên có rất nhiều cổ thụ giao cành với nhau, hoa mọc thành từng buội có sắc tím với vàng rồi tới một cái khe nước có lẽ do nước mưa tạo thành, tiếng chim từ một nơi nào đó chốc chốc vang lên làm cho khung cảnh thêm phần cô tịch. Khi thấy đường đi có bậc thang thì biết là tới nơi hoặc nếu có cơ hội nhìn lên thì sẽ thấy nóc nhà vẫn còn xanh màu lá mới. Đường lên động tiên khi xưa của Từ Thức chắc cũng chỉ đẹp đến thế thôi. Công việc tiếp theo là làm một chiếc cầu bắc ngang qua khe nước. Chỉ một tuần sau, một kiến trúc sư đứng ra thực hiện cùng với các tình nguyện viên, cầu làm bằng những thanh tre ghép lại, tre ở xung quanh đây có khá nhiều, còn tay vịn là những dây mây rừng được đan kết khéo léo mang hình tượng con rồng đang uốn lượn. Còn tượng phật thì có người lo, một người trẻ khác nguyên là một nhà điêu khắc, bỏ công đi tìm loại đất sét màu đen giữa hòn đảo được cấu tạo toàn bằng đất đỏ cao nguyên. Hình Phật ngồi trên toà sen cao khoảng sáu tấc. Anh giải thích là đất sét đen dễ nặn, nếu chịu khó gọt nhiều lần thì nó sẽ bóng lên như đánh véc ni vậy.
Chắp tay con vái phật trời,
Đương cơn hoạn nạn, độ người trầm luân
Bác Danh cùng đồng hương phật tử thắp nhang thành khẩn trước Phật đài trong buổi lễ khánh thành, khói hương nghi ngút, tiếng kinh bát nhã râm rang. Buổi lễ đơn sơ nhưng để lại trong tâm tưởng mọi người một thời khắc khó phai. Lòng tôi nặng trĩu khi nhớ hình ảnh của những người mà tôi biết đã tử vong như Sinh, như hai cha con không rõ tên ở Sài gòn đi cùng ghe, như trung tá Tý ở trại Songkhla và biết bao người xấu số khác. Bên trong trại tỵ nạn Songkla, giữa hai dãy lều trại là một lối đi chung được đặt tên rất ý nghĩa là Đại lộ Bình Minh vì mỗi sáng đều đón nhận ánh bình minh rực rỡ nhưng trước đó đường mang tên Huyền Hoài Võ để ghi nhớ người thanh niên tử nạn trong lúc cố gắng đào giếng tìm nước ngọt.. Mong sao linh hồn của những nạn nhân còn vất vưởng được sớm siêu thoát.
Ngôi chùa Phật trên hòn đảo mà cư dân đa số là tín đồ Hồi giáo chẳng những nói lên sự hòa đồng mà còn chứng minh giáo lý của các tôn giáo có nhiều điểm tương đồng. Người phụ trách lớp Anh ngữ tôi học là nguời Nam Dương theo đạo Hồi trong khi học viên là người Việt, Miên, Lào theo nhiều tôn giáo khác nhau. Đất nước Nam Dương đã cưu mang người tỵ nạn tuy có thời hạn nhưng đã nói lên tình người với người rất cao cả thiêng liêng.
Nhiều năm sau có người trở lại, đứng nơi cái bến tàu làm tôi nhớ lúc phải bịn rịn chia tay với nhóm bạn, thì cũng tới ngày đi thôi, trả lại Galang những ân tình kỷ niệm, tôi nhớ người lái tàu chấp tay khấn vái rồi đổ ly rượu xuống mặt nước xanh, một phong tục lâu đời mang ý nghĩa cầu mong cho chuyến hải hành xuôi chèo mát mái. Chiếc tàu rẽ nước ra khơi tôi biết đàng sau vẫn còn người đứng tiễn. Tôi như thấy bác Danh chậm rãi leo lên từng bậc thang để viếng chùa. Biển êm không gợn sóng, đời trôi về vạn nẽo xa xăm.
Trầm Vũ Phương
20 tháng 7 năm 2025
TV Phương viết đã đưa tôi về với bao kỷ niệm trại Galang 2, Indonesia.
Trả lờiXóaKhông biết TV Phương ở Galang năm nào? Riêng tôi chuyển từ Thái Lan đến Galang 2 tháng 8, 1981... Nhớ khu chợ và bãi biển ở Galang 1. Nhớ bến tàu một lần đến và đi trong đời. Nhớ những dãy nhà sàn (barrack), trên ở dưới nấu ăn...
Nhớ đến khu đất Galang 3, nơi yên nghĩ của những người Việt tị nạn trên đường tìm tự do trên biển cả.
Ôi, "những người muôn năm cũ / hồn ở đâu bây giờ?"...
NNH
Thưa anh, Phương đến Galang2 vào khoảng tháng tư từ trại Songkhla năm 81. Ba tháng sau thì rời đảo đi định cư. Trên bước đường tìm tự do thì có khá nhiều điều đáng nhớ. Phương ghi lại coi như ôn lại kỷ niệm của đời mình và có dịp chia sẽ với bạn hửu. Cảm ơn anh đã đọc và cho biết cảm tưởng. Đây là điều khích lệ cho Phương.
Trả lờiXóa