Thứ Bảy, 12 tháng 12, 2020

Tấm Thiệp Tết bất Ngờ - Kỳ 1

 Truyện ngắn của Nhã Quân 


Bà Tư đặt chiếc hộp gỗ lên bàn. Chiếc hộp gỗ mà bà lưu giữ bao nhiêu thứ kỷ niệm thuộc về bà.  Ngót chừng hơn năm năm nay, từ khi ông nhà mất, bà không dám nhìn lại cái hộp gỗ đó nữa.  Hôm nay, lấy ra từ cái góc của một ngăn kéo đựng hình ảnh và một số sách báo cũ, bà thấy lòng bùi ngùi.  Bà chậm rãi mở chiếc hộp, mang ra một xấp những tấm ảnh.  Trong đó có những tấm ảnh còn mới tinh trong trí nhớ của bà.  Mới mấy năm trước đây, trước khi ông ngã bịnh.  Con cái tề tụ về trong dip Tết, hay lễ lạc gì đó.  Mấy tấm hình chụp các con, dâu, rể và lũ cháu quây quanh ông bà.  Bà nhìn thấy ông cười trong tấm hình mà nhớ nụ cười hiền hậu của ông.  Có những tấm ảnh cũ, đen trắng, giờ cũng đã ngả vàng. Nhưng chúng là những tấm ảnh bà quí lắm, vì đó là tài sản của bà cụ bị mang từ Việt nam qua; vì đó là cả quá khứ, cả kỷ niệm từ thời bà còn son trẻ cho đến bây giờ. Mỗi tấm ảnh như vẽ lại cho bà cả một quảng đời đã qua, đầy ấp những kỷ niệm vui buồn.  Tận cùng dưới đáy hộp là một phong vì cở lớn.  Bà cầm phong bì lên, lòng bồi hồi. Bà biết trong phong bì đó có chứa đựng một thứ kỷ niệm gợi nhắc một thời xuân sắc của bà.  Bà chậm rãi rút ra một tấm thiệp; cầm tấm thiệp trên tay run run.  Tấm thiệp mà ông nhà đã đọc cho bà nghe ngót chừng bảy, tám năm về trước.  Bà sữa lại cặp kiếng, từ tốn mở tấm thiệp.  Bà nhìn tên nguời gởi và những hàng chữ bắt đầu lung linh và mờ dần…

***
Bà Tư là cô Tư Diệu của 75 năm về trước.  Cô Tư Diệu, một cô gái hiền thục và thông minh, con thứ tư trong gia đình 5 chị em gái, con của ông bà chủ điền làng Hòa An, huyện Long Mỹ.  Gia đình bên vợ của người bác cô, giàu có và rất chuộng Tây học, lại có thế lực trong huyện, cho nên những gia đình của các ông Chủ, Cả của huyện Long Mỹ đều muốn con cái mình theo gương.  Mười ba tuổi, ba cô Tư quyết định cho con lên Sài gòn học, mặc dù mẹ cô ngần ngại để con mình đi xa, nhưng vì muốn cho nở mày nở mặt với thiên hạ, cho nên bà bấm bụng chiều con..  Không như các chị em của cô, cô Tư quyết tâm vâng lời cha, theo đuổi việc học hành. Điều làm cô vững bụng là cô nghe tin con gái Út của ông Cả Quý, bên làng Vĩnh Tường, cũng sẽ cùng lên Sài gòn học chung với cô.  Ngoài cô con gái út, ông Cả Quý còn có hai người con trai lớn học nội trú ở trường Lasan Taberd Sài gòn, cho nên để cho mẹ cô Tư yên bụng, người bác của cô hứa sẽ thu xếp gởi gấm cô Tư cho hai anh em con ông Cả Quý làng bên.

Rồi mọi chuyện được sắp xếp ổn thỏa, nhờ vào sự quen biết của gia đình ông Cả Quý. cô Tư Diệu được vào nội trú ở trường Mary Curie cùng với cô Út Phụng.  Vào thời đó Marie Curie là một ngôi trường dành cho các nữ sinh trung học người Pháp, và một số ít người Việt Nam xuất thân từ các gia đình giàu có và có thế lực ở Sài Gòn.  Trong khuôn viên của trường có một khu nội trú dành cho học sinh ở tỉnh lên học.  Thời gian đầu cả cô Tư Diệu và cô Út Phụng phải rất vất vả mới theo  kịp chương trình học, vì tất cả các môn học đều được giảng dạy bằng tiếng Pháp.  Nhờ có cô út Phụng làm bầu bạn nên cô Tư vững tâm và hai chị em thi đua học hành, cho nên gần được nữa năm, hai cô đã theo kịp chương trình học.

Vào những ngày cuối tuần, cậu hai Hoàng, con trai lớn của ông Cả Quý, cùng với người em trai đang ở nội trú trường Lasan Taberd, sang trường Marie Curie, nói là để thăm em, nhưng thực lòng cậu cũng muốn gặp mặt cô Tư Diệu.  Cậu Hai Hoàng luôn đề nghị xin phép Sơ giám thị để được đưa hai cô em ra ngoài để mua sắm một số đồ cần dùng.  Một hai lần đầu cô Tư Diệu còn ngần ngại nên từ chối khéo, lấy cớ phải học bài.  Nhưng những lần như vậy, thế nào khi về cô Út Phụng cũng mang về một món quà nhỏ, nói là của anh Hai gởi. Cô Tư Diệu để ý thấy cậu Hai Hoàng cũng ân cần chăm sóc cô như em mình, nên cô yên bụng và lâu dần cô cảm thấy thích thú được dịp rời nội trú, để đi mua sắm, hoặc đi xem xi-nê, hoặc đi chơi sở thú với anh em cậu Hai Hoàng, cho nên hể đến cuối tuần là cô thấy nôn nao, chờ đợi…

Mùa Hè năm đầu tiên xa nhà, cô Tư háo hức được về quê thăm cha mẹ, chị em.  Một ngày, trước hôm về quê, cậu Hai Hoàng và người em trai sang bên nội trú đón người em và cô Tư Diệu ra một khách sạn để chờ xe nhà ở quê lên đón về.  Khách sạn có một giường, cho nên hai cô gái được ưu tiên ngủ trên giường, còn cậu Hai Hoàng và người em trai trải mền nằm trên sàn gỗ.  Chuyến về quê thiệt là vui.  Từ tờ mờ sáng, chú tài xế đã đánh thức mọi người và mang hành lý ra chiếc Traction đen, đậu bên ngoài khách sạn. Em trai cậu Hai Hoàng ngồi bên cạnh tài xế, cậu Hai Hoàng ngồi hàng ghế sau với cô Út Phụng và cô Tư Diệu.  Cô cảm thấy thật thoải mái.  Xe qua những con đường phố lúc tờ mờ sáng; rời khỏi thành phố lúc mặt trời ửng hồng từ chân trời xa.  Cậu Hai Hoàng, cô Út Phụng liên tục trò chuyện với cô Tư, cho nên cô thấy thời gian qua nhanh quá!  Chen lẫn với những giấc ngủ chập chờn, là những mẫu chuyện của cậu Hai Hoàng kể cho cô Tư Diệu và cô Út Phụng.  Cậu Hai Hoàng ăn nói rất có duyên và bặt thiệp, cho nên mọi người cảm thấy thích thú đến quên cả đường xa. Xế chiều, xe về đến huyện Long Mỹ. Cậu Hai Hoàng ân cần cho tài xế đưa cô Tư Diệu về đến tận nhà, bịn rịn chia tay và hẹn sẽ ghé qua thăm trong vài ngày tới.

Mới có ba hôm, từ ngày ở Sài gòn về, cậu Hai Hoàng và cô Út Phụng đã sang thăm cô Tư.  Cậu Hai Hoàng lấy cớ ghé thăm nguời bạn, con ông Cả Nhơn, lại là bà con chú bác của Cô Tư, ở nhà bên cạnh.  Cô Tư ra chào khách xong là đưa cô Út Phụng vào phòng trong. Cậu Hai Hoàng ngồi lại tiếp chuyện với ba cô Tư, thỉnh thoảng ngó vào trong màn cửa.  Mấy người chị em của cô Tư cũng tò mò, kín đáo nhìn qua màn cửa để xem mặt cậu Hai Hoàng.  Sau buổi cơm trưa, ba má cô Tư cầm khách ở lại và dặn cô Tư đưa khách ra sau vườn nhà chơi.  Cô Út Phụng vui vẻ nhận lời ngay, trong khi cậu Hai Hoàng mừng rỡ ra mặt.

Mùa Hè năm đó cậu Hai Hoàng đã lấy cớ sang thăm bạn, con ông Cả Nhơn, rồi tháp tùng cô Út Phụng ghé thăm cô Tư thêm mấy lần nữa.  Nài nĩ mãi cô Tư mới can đảm xin phép ba má sang nhà cô Út Phụng chơi. Vì là bạn học của con gái cưng của ông bà Cả, lại là con nhà xem ra cũng “môn đăng hộ đối”, lại được cậu Hai Hoàng đặc biệt quan tâm cho nên cả nhà ông Cả Quí đón tiếp cô Tư thật niềm nỡ.  Cô Tư nhớ lời mẹ dặn, cho nên cô cứ bám theo cô Út Phụng, lẩn quẩn trong 
phòng, trong khi cậu Hai Hoàng sốt ruột chờ đợi ở bên ngoài. Sau bửa ăn trưa, cậu đề nghị ra sau vườn chơi, để cậu khoe cây khế ngọt của gia đình.  Cây khế do một người tá điền tặng cho gia đình, thưỡ cậu khoảng cậu 9 hay 10 tuổi, mà bây giờ vẫn còn tốt tuơi, cành lá sum xuê che rợp một khoảng sân gạch tàu.  Cây khế của nhà cậu có một thời nổi tiếng khắp huyện nhờ vào vị ngọt của nó.  Bây giờ thì ai trong nhà cậu Hai cũng không còn thấy cái vẻ quan trọng của cây khế nữa; nhưng đối với những nguời khách, như cô Tư, ai nhìn cây say hoằn vói những trái khế xanh chen lẫn với những trái chín ửng vàng cũng đều khen.  Cậu Hai Hoàng nhanh nhẹn leo lên cái thang tre, dựng sẵn duới gốc cây, chọn những trái thật ngon hái xuống.  Trong khi chờ cô em vào trong bão nguời làm đem nước uống, cậu Hai lựa một trái to và đẹp nhất, đưa cho cô Tư, căn dặn, “Anh dành cho em trái nầy, hãy cất vào giỏ đi kẻo Út Phụng thấy, nó phân bì.”  Cô Tư nhỏ nhẹ cám ơn trong khi gương mặt cô tỏ lộ một niềm vui bối rối.

Mặc dù cha mẹ hai bên không ai chính thức nói lời nào về sự liên hệ của cậu Hai Hoàng và cô Tư Diệu, nhưng mọi người đều ngầm hiểu và bằng lòng với vẻ đẹp đôi của hai người. Ngoài ra sự thân tình và gần gủi của cô Tư và cô Út Phụng cũng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cậu Hai Hoàng.  Riêng với cô Tư, cô vẫn còn giữ ý với cậu Hai, và lúc nào cũng tự xem mình như em gái của cậu. Bắt đầu mùa học năm sau đó, cô Tư được phép tháp tùng với anh em cậu Hai lên Sài gòn.  Rồi những lần thăm viếng ở khu nội trú trường Marie Curie, những dịp đi chơi cuối tuần và đặc biệt là những ân cần chăm sóc của cậu Hai Hoàng, khiến cho cô Tư bắt đầu suy nghĩ.  Có lần đi xem phim, cô Út Phụng cố tình sắp xếp cho cậu Hai Hoàng ngồi cạnh cô Tư.  Đến khi phim bắt đầu, cậu Hai giả vờ chạm nhẹ vào tay cô Tư, cô bối rối rút tay lại. Cô nghe tim mình đập lung tung.  Cậu Hai vẫn kiên trì; cho đến gẩn cuối phim, cậu bạo dạn đặt bàn tay mính lên tay cô, lần nầy cậu Hai không thấy cô phản ứng.

Gần cuối năm học thứ hai, cô Út Phụng đột nhiên ngã bịnh.  Ban đầu ngỡ là cô bị cảm nhẹ, các Sơ trong nội trú cho cô uống thuốc cảm cúm, nhưng cô nằm liệt giường cả tuần lễ trong nội trú, và cô ho ngày càng càng nhiều thêm. Cậu Hai Hoàng nghe tin em bịnh, vào thăm. Thấy bịnh bình cô Út không thuyên giảm, cậu nhờ người nhắn tin ba má cậu.  Khi lên đến nơi, ông bà Cả Quý chở con thẳng vào bịnh viện Saint Paul để điều trị. Bác sĩ Tây cho biết là cô bị bịnh lao phổi cấp tính.  Vào thời đó, lao phổi cấp tính là một bịnh rất hiếm hoi và gần như bất trị. Ông bà Cả lo lắng đến mất ăn mất ngủ và quyết lòng chửa trị cho con dù có hao tốn bao nhiêu.  Bà kêu tài xế chở bà đến các ngôi chùa quanh đó, để bà thắp nhang cầu nguyện.  Hằng ngày, sau giờ học cậu Hai Hoàng và người em trai thay phiên vào bịnh viện phụ với ba má, chăm sóc cho em.  Cô Tư đang trong mùa thi cuối năm, cho nên cô chỉ vào bịnh viện thăm bạn vào cuối tuần.  Nhìn cô Út Phụng nằm thiêm thiếp trên giường bịnh, cô Tư thấy xót xa. Cô thầm cầu nguyện cho cô Út sớm lành bịnh.  

Hơn một tuần trong bịnh viện Saint Paul, mặc dù các bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng bịnh trạng của cô Út càng ngày càng nặng hơn.  Chiều chủ nhật, sau khi cô y tá lau dọn cho cô, cô Út mở mắt nhìn bà Cả, cô mấp máy môi như muốn nói điều gì.  Bà vui mừng gọi ông Cả, cậu Hai Hoàng và cô Tư vào phòng. Cô y tá mở tạm chiếc mặt nạ dưởng khí cho cô.  Bà Cả cố áp tai gần mặt cô, qua giọng thì thào, cô cho biết cô mệt lắm. Cô đảo mắt một vòng nhìn mọi người.  Hai khóe mắt thâm quầng của cô ứa ra những giọt nước mắt.  Ông Cả xót xa, bão cô nằm nghĩ đừng cố gắng nói chuyện mà mệt thêm. Cậu Hai Hoàng yêu cầu cô y tá gắn lại mặt nạ dưởng khí cho cô, nhưng cô Út khoát tay từ chối. Thình lình một cơn ho ập đến.  Giọng ho khàn đục yếu ớt. Cô Út ưởn người lên trong một cố gắng dường như để lấy thêm dưởng khí cho buồng phổi rửa nát của mình.  Cô y tá chụp vội chiếc mặt nạ dưởng khí và chạy đi tìm bác sĩ.  Cậu Hai Hoàng nâng đầu em tựa vào vai mình.  Chiếc mặt nạ dưởng khí mờ dần, mờ dần. Cô Út Phụng nất lên.  Hai hàng nước mắt chạy dày trên đôi má gầy gò.  Bà Cả hốt hoảng, nước mắt ràn rụa gọi, “Con ơi, Phụng ơi!”  Bà trông đợi cơn ho sẽ trở lại như một dấu hiệu là cô Út vẫn còn sống, nhưng tiếng ho im bặt! 

Cái chết của cô Út Phụng đã thay đổi tất cả trong cách suy nghĩ và nếp sống của cô Tư Diệu.  Buổi tối khi từ bịnh viện Saint Paul về đến phòng, thấy cái gì thuộc về cô Út cô cũng khóc, cô khóc đến mỏi mòn rồi thiếp đi. Thức giấc sáng hôm sau, nhìn chiếc giường trống của cô Út Phụng, cô Tư không cầm được nước mắt.  Một cảm giác trống vắng và lẻ loi chiếm ngập hồn cô.  Kỷ niệm của những ngày đầu tiên của hai nguời bạn cùng quê lên học ở Sài gòn như sống lại.  Vào nội trú ở trường Marie Curie, hai cô nghĩ mình đang lạc vào một thế giới xa lạ. Phải sống theo một khuôn khổ và kỷ luật của các Sơ giám thị.  Họ đã nâng đở nhau để cùng vượt qua một học trình khó khăn, toàn bằng Pháp ngữ.  Họ cùng chia xẻ những niềm vui, nỗi buồn bằng hơn cả tình bạn, và hơn cả tình chị em ruột thịt.  Bây giờ cô chỉ còn lại một mình.  Cô gượng thức dậy để vào lớp tiếp tục những ngày thi cuối năm.  Anh em cậu Hai Hoàng đã theo ba má đưa em về quê lo ma chay.  Cô Tư đã nhờ nhắn ba má cô cho người lên đón cô về. Cô chợt nhớ chuyến về quê năm rồi mà ứa nước mắt.  

Má và chị cô Tư Diệu cùng tài xế mang xe lên đón cô về, ngay đúng ngày thi cuối của cô.  Họ ở tạm qua đêm tại môt khách sạn, rồi về quê ngay sáng hôm sau.  Mặc dù có mẹ, có chị an ủi, cô Tư khóc gần suốt đêm.  Kỷ niệm lần ở khách sạn năm trước cừ lảng vảng trong trí nhớ của cô.   Khi cô Tư về đến nhà, thì đám tang của cô Út cũng đã xong ngày hôm trước.  Ngay ngày hôm sau, cô Tư xin phép cha mẹ để sang thăm và chia buồn cùng ông bà Cả Quý. Má cô Tư muốn cùng đi với cô.  Nghe nguời làm báo tin mẹ con của cô Tư đến thăm, ông bà cả Quý và cậu Hai Hoàng ra tận cổng đón tiếp.  Vừa thoáng thấy cô Tư, bà Cả đã rơm rớm nước mắt.  Khi cô Tư đến gần, chào hỏi ông bà, thì bà Cả không còn kềm giử được cảm xúc của mình nữa, bà ôm cô Tư khóc nức nở, “Diệu ơi, con Phụng không còn nữa rồi Diệu ơi!”.  Cô Tư im lặng, bất động trong vòng tay của bà Cả, nhưng hai hàng nước mắt tuông xuôi không cách gì kềm giữ được.  Cái không khí ảm đạm bao trùm trong gia đình ông bà Cả Quý.  Cô Út Phụng chết trẻ không những chỉ là một ám ảnh cho gia đình ông bà Cả mà còn là một nỗi đau sâu xa trong lòng cô Tư Diệu. Trong lần thăm viếng đó cậu Hai Hoàng không nói được gì với cô Tư.  Mỗi khi cậu mở lời là cô rơm rớm nước mắt rồi lảng tránh, sợ phải khóc trước mặt câu Hai. Kỷ niệm gần hai năm học ở nội trú với cô Út Phụng như không thể nào phôi pha trong lòng cô.

Không còn cô Út Phụng, cậu Hai Hoàng nhiều lần cảm thấy lúng túng trong việc tìm lý do để sang thăm cô Tư.  Bây giờ chỉ còn một cái cớ duy nhất là ghé thăm bạn, con ông Cả Nhơn, rồi nhờ người bà con nầy, đưa sang thăm cô Tư. Nhưng may làm sao, trong lần thăm viếng thứ hai, khi chào ra về, má cô Tư mở lời cho cậu, “Khi nào rỗi rảnh, con cứ tự nhiên sang chơi”.  Cậu Hai Hoàng mừng hơn bắt được vàng.  Gần đến mùa học năm sau, cô Tư nói với má cô là cô không muốn đi học nữa.  Má cô ngạc nhiên, đem chuyện đó nói lại với ba cô.  Má cô xem chừng hiễu được tâm trạng của cô.  Bà nghĩ sự khủng hoảng về tinh thần sau cái chết của cô Út Phụng sẽ là một ám ảnh dài lâu cho cô.  Ba cô ban đầu quả quyết là cô phải tiếp tục học cho đến khi lấy bằng Thành Chung thì mới được nghỉ, nhưng mẹ cô nài nĩ mãi, ông cũng đành chiều theo.  Cậu Hai Hoàng hốt hoảng khi nghe tin cô Tư quyết định nghỉ học.  Cậu đích thân sang thuyết phục cô Tư, nhưng không có hiệu quả.  Sau đó cậu nhờ đủ mọi nguời, từ gia đình ông Cả Nhơn, cuối cùng đến ba má cậu, nhưng cô Tư không còn lòng dạ nạo tiếp tục chuyện học hành.

Mùa học năm đó cậu Hai Hoàng lên Sài gòn, buồn thiu.  Không còn cô Út Phụng, không có cô Tư Diệu. Hai anh em cậu Hai Hoàng không còn thấy thích thú trong những ngày nghỉ cuối tuần.  Để giải khuây, cậu Hai ghi tên vào một lớp học đàn vĩ cầm và thời gian còn lại cậu chăm chú vào việc ôn luyện cho kỳ thi cuối năm.  Năm đó cậu Hai Hoàng đậu ưu hạng bằng Thành Chung. Tin cậu Hai thi đậu đồn khắp cả huyện.  Sau một năm trời, cô Tư cũng đã nguôi ngoay được phần nào.  Nghe tin cậu Hai Hoàng thi đậu, cô mừng lắm.  Ông bà Cả Quý làm tiệc thật to để mừng con thi đậu.  Sau bữa tiệc, gia đình ông Cả Nhơn và gia đình cô Tư được mời lưu lại.  Ông bà Cả Nhơn cáo từ ra vể, vì có việc.  Cậu Hai Hoàng mừng rỡ vì gia đình cô Tư nhận lời mời ở lại.  Ba má Cô Tư và ông bà Cả Quý xem chừng ngầm ưng thuận cho sự giao tiếp của cô Tư Diệu và cậu Hai Hoàng, mặc dù không ai nói lời nào, vì sợ ảnh hưởng chuyện học hành của cậu Hai. Trong lúc cha mẹ hai bên trò chuyện, cậu Hai Hoàng đưa cô Tư thăm lại cây khế ngọt sau vườn.  Mặc dù vẫn cảnh cũ, vườn xưa, nhưng bóng dáng cô Út Phụng vẫn còn vướng vất trong nỗi nhớ của cô, cho nên cô Tư không còn thấy thích thú với những hoa khế mang sắc hồng tím, và cả những trái chín ửng vàng nữa.  Cậu Hai Hoàng như hiễu được tâm trạng cô Tư, tìm mọi cách để làm cô vui.  Cậu mang từ trong nhà ra một chiếc hộp to với màu sơn bóng loáng, cậu đặt chiếc hộp trên băng ghế, cạnh cây khế, rồi ân cần mời cô Tư ngồi bên cạnh chiếc hộp.  Trong khi cô Tư tò mò quan sát chiếc hộp, cậu chậm rải mở hộp, mang ra chiếc đàn vĩ cầm xinh xắn.  Cậu Hai Hoàng cho cô Tư biết là trong năm qua, để bù đấp cho nỗi nhớ cô, cậu đã đi học đàn vĩ cầm và bây giờ cậu sẽ đàn cho cô nghe.  Cô Tư mĩm cười với vẽ cảm động.  Cậu Hai nâng đàn lên vai, nghiêng đầu tựa càm vào thân đàn, trong tư thế như một nhạc công chuyên nghiệp, cậu kéo đàn. Từ cây vĩ cầm phát ra một thứ âm thanh dìu dặt.  Cô Tư chợt nhớ đến những tiếng đàn vĩ cầm réo rắt trong những buổi hòa nhạc của dàn nhạc Tây đến trường trình diển, cô nhìn cậu Hai một cách ngưỡng mộ.   Buổi chiều khi tiển khách ra về, cậu Hai Hoàng kín đáo trao cho cô Tư một chiếc hôp nhỏ, dặn khi về bên nhà hãy mở xem.  Cô Tư nhìn cậu Hai cười bẻn lẻn cám ơn.  Trên đường về nhà, cô nôn nóng muốn biết cái gì bên trong chiếc hộp, nhưng ngại mở ra trước mặt mẹ mình, cho nên khi vừa về đến nhà, cô chạy vội vào phòng, cẫn thận mở lớp giấy gói.  Cô mở hộp ra, trong đó là một cái kẹp tóc có đính hình những đóa hoa mai bằng sa cừ, ở giữa là hình một trái tim màu hồng nhạt, làm bằng một loại đá quí. Bằng một phản ứng bất chợt, cô Tư nắm chặt chiếc kẹp trong lòng hai bàn tay, áp lên ngực mình, và nở nụ cười rạng rỡ, hạnh phúc!  Hình như cô Tư Diệu đã yêu?

(Còn tiếp... đón xem tiếp kỳ 2)
Nhã Quân



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét